Kỷ niệm về nhà triết học Trần Đức Thảo

Kỷ niệm về nhà triết học Trần Đức Thảo* (1917-1993) trích từ hồi ký của GS NGND Đào Văn Tiến (1920-1995).

Triết gia Trần Đức Thảo

Tôi nghe tiếng nhà triết học Trần Đức Thảo từ hồi còn là sinh viên. Đây là người Việt Nam đầu tiên đỗ thạc sĩ triết học ở Pháp và cũng là người được giới học thuật trên thế giới chú ý, vì đã tranh luận công khai với Sartre về chủ nghĩa hiện sinh – Sartre là triết gia Pháp, sáng lập ra chủ nghĩa này.

Trong kháng chiến, tôi được tin anh về nước cùng với mấy người bạn khác, nhưng không có dịp gặp anh. Tới khi thành lập trường đại học Tổng hợp Hà Nội, anh được cử về phụ trách bộ môn Triết học của trường.

Anh đẫy người, mặt trắng trẻo đầy đặn với cái trán rộng và đôi mắt tươi cười sau cặp kính cận. Không thấy bao giờ anh thắt ca vát ngay cả trong những buổi lễ long trọng. Đôi giầy giôn của anh khô da, bạc sắc vì thiếu kem – có lần tôi tò mò hỏi anh, anh chỉ cười: “Ngay từ thời sinh viên ở Pháp, không bao giờ moa đánh giầy, vì cớ gì mà đổi thói quen đó?”. Tôi thầm nghĩ: “Đây quả là triết gia, vì anh không giống mọi người”.

Sau này tìm hiểu thêm mới biết trước kia anh học rất giỏi, nên có học bổng sang Pháp, và ở đấy anh vào Ecole Normale Supérieure, một trường đại học nổi tiếng về trình độ thày giáo và sinh viên.

Anh Trần có cái nội tâm phong phú của nhà tư tưởng. Anh ít nói, nghĩ nhiều nên gần như không để ý gì đến hoàn cảnh. Không có nhiều người thân cận với anh. Anh có vẻ như cây nấm cô đơn với kho suy nghĩ của mình.

Hồi ở trường, anh hay truyện trò với tôi, vì cả hai quan tâm tới vấn đề tiến hóa, nhất là tiến hóa của loài người – anh chú ý tới vấn đề tiến hóa của tư duy. Nhiều lúc chúng tôi gặp nhau ở thư viện khoa học kỹ thuật trung ương, cùng phát hiện những tài liệu tham khảo mới và trao đổi với nhau ý kiến. Tôi thấy nhiều buổi trưa, vì ham đọc, anh ở lại thư viện, ăn trưa qua loa rồi tiếp tục làm việc tới chiều.

Vào năm 1957, bỗng nghe tin anh liên can tới nhóm Nhân văn giai phẩm – tức là nhóm văn nghệ sĩ chống đường lối chính sách của Đảng – và chuẩn bị phải kiểm điểm ở trường, tôi rất ngạc nhiên và không tin. Trong chuyện trò ngày thường, tôi thấy anh là người học thuật đơn thuần, ít khi nói tới xã hội, càng không bao giờ nói tới chính trị.

Tôi nhớ buổi sáng hôm đó, ở giảng đường lớn đại học, người ta bố trí trên bục một bàn chủ tịch và một bàn thư kí. Chúng tôi, kể cả anh Trần, ngồi ở hàng ghế dưới, cùng với anh Hà Huy Giáp, hồi đó là thứ trưởng bộ Giáo dục. Tôi không thấy anh Trần đọc bản kiểm điểm gì, tôi không nhớ rõ – chỉ thấy lúc đó có một học trò của anh Trần lên tố giác thầy vì chuyện lạm dụng sách của bộ môn, lấy sách chung làm của riêng. Rồi một anh khác lên nói là thầy sử dụng lao động của sinh viên để viết sách cho mình. Thật ra đây là phương pháp làm việc của một giáo sư đại học, phân phát đề tài nghiên cứu cho sinh viên và tập hợp kết quả nghiên cứu của họ. Người tố giác đó rõ ràng có dụng ý trình bày là thày đã bóc lột sức lao động của trò.

Tôi liếc nhìn anh Trần ngồi cạnh, anh không có một phản ứng gì, vẫn cặp mắt sáng nhìn vào khoảng xa. Lúc đó anh dường như đã tách khỏi cái không khí ồn ào, xỉ vả anh của một số người có dụng ý.

Tôi nhớ cả một ông Vụ trưởng nào đó ở Bộ Giáo dục và một giáo viên ngôn ngữ học ngồi ghế chủ tịch đoàn, thay phiên nhau phân tích về thiếu sót của anh Trần. Người thì nhấn mạnh: “với khuyết điểm ấy, ông Trần không phải là nhà khoa học chân chính”, người thì khẳng định: “với tư cách ấy, ông Trần không xứng đáng với danh hiệu triết gia…”. Tôi không nhớ hết những lời moi móc, bêu diếu của vài kẻ bất ứng.Tuy nhiên phần lớn trong cử tọa buổi đó đã giữ im lặng. Riêng anh Trần đã ngồi im lặng không một chút phản ứng.

Tôi thấy rõ ý đồ của cấp quản lý bầy ra chuyện kiểm điểm này là để đánh đổ uy tín của anh Trần về học thuật – giống như phát động nông dân đánh đổ uy thế của địa chủ, trong cải cách ruộng đất – nhưng không đạt yêu cầu. Người dự im lặng tỏ vẻ không tán thành cách đối xử như trên với một người trí thức, một giáo sư đại học. Sau đó, dựa vào kết luận của buổi họp, người ta buộc anh Trần phải nghỉ việc.

Từ đấy, tôi ít khi gặp anh Trần – trước kia anh thường tới phòng làm việc của tôi để trò chuyện. Thỉnh thoảng có lúc gặp anh ở thư viện, anh không nói gì tới chuyện cũ mà vẫn say sưa bàn về vấn đề tiến hóa luận với những suy nghĩ trong đầu anh. Tôi biết là từ khi rời trường, anh đã phải dịch tài liệu cho Ủy ban khoa học xã hội để mưu sinh. Tuy nhiên anh đã không hề nói gì về sinh hoạt túng thiếu của mình.

Có bữa anh gặp tôi, mặt mũi hớn hở: “Tạp chí La Pensée – tạp chí duy lí hiện đại của Đảng cộng sản Pháp – vừa đăng một thông báo khoa học của moa về cấu trúc của xương chậu vượn người – vẫn lại là vấn đề tiến hóa” – Thông báo xong anh hơi buồn: “Giấy viết hết rồi, mình không biết mua ở đâu, cả giấy pơ luya nữa, toa kiếm cho moa một ít”, tôi lắc đầu ái ngại: “Giấy moa cũng lĩnh ở nhà trường, mỗi quý ba tập, viết thường không đủ”. Đúng là thời đó còn bao cấp nhiều mặt, nên còn thiếu thốn nhiều thứ thông dụng cần cho cuộc sống, nhưng không ai tưởng tượng nổi là các nhà khoa học đã rất thiếu giấy viết!

Một buổi chiều khác, tôi tới thăm anh ở bệnh viện, anh phàn nàn với nụ cười trên môi: “Moa vẫn bị cái viêm gan quái ác nó hành hạ, bệnh này tốn quá, phải có nhiều protit thì mới khỏe, bao nhiêu tiền phải dồn cho protit cả…”. Tuy phàn nàn như vậy, cặp mắt anh vẫn lóng lánh cười vui và hỏi ngay: “Độ này, toa có đọc được gì mới không?” Tôi hẹn gặp nhau ở thư viện để trao đổi như cũ. Không biết anh kiếm đâu được cái xe đạp mini Liên Xô, đạp tới thư viện, trông xa như con gấu xiếc, ai cũng phải buồn cười.

Có một hôm, anh nói với tôi rằng anh có người bạn thân, người Pháp, một giáo sư triết học, sang thăm Việt Nam, tỏ ý muốn đi thăm anh ở khu tập thể Kim Liên. Cần thêm là căn hộ quá đơn sơ của anh không có gì đáng giá. Cấp quản lí muốn cho đem tới bộ ghế sa lông để anh dùng tiếp khách cho lịch sự. Anh hồn nhiên trả lời: “Khỏi lo, hàng chục năm nay sống được như thế này rồi, việc gì phải thêm bàn ghế cho rắc rối, vả lại ông bạn Pháp của tôi cũng không phải là người hình thức…”

Có lần anh hỏi tôi xem ai có Tư bản luận nguyên bản tiếng Đức không, anh sẽ mua lại để dùng. Tôi hơi ngạc nhiên: “Thế ra toa vẫn nghiên cứu chủ nghĩa Mác?” anh gật đầu: “Như một học thuyết khoa học” Tôi tiếp: “Mới đây hay đã từ lâu?” – Từ hồi ở Pháp – anh trả lời – Chính moa phê phán chủ nghĩa hiện sinh trên luận điểm chủ nghĩa Mác. Tôi hỏi thêm: “Bây giờ, toa nghiên cứu cụ thể vấn đề gì của chủ nghĩa Mác?” Anh đáp: “chủ nghĩa Mác Châu Âu (Euro communisme) do Đảng cộng sản Ý khởi xướng – Mình muốn viết một báo cáo ngắn về vấn đề này cho một đồng chí lãnh đạo”. Hóa ra anh Trần lại là chuyên gia về chủ nghĩa Mác, ít người biết, bên cạnh một số lĩnh vực khác về triết học, ngôn ngữ, tư duy…

Quả ít người có một tư duy đa dạng, một nội tâm phong phú như anh. Phải ở gần, cùng làm việc với anh mới thấy được điều này. Chính cái nội tâm phong phú này, đã giúp anh vượt qua cơn giông tố không đáng có của cuộc đời, nơi anh là một ngôi sao cô đơn. Trong bầu trời, có nhiều sao lớn sao nhỏ thi nhau nhiễu loạn ánh sáng, nhưng ngôi sao cô đơn của anh Trần vẫn giữ nguyên vẹn ánh sáng thật chân chất của nó.

Triết gia như anh Trần không chắc gì dễ kiếm trong giới trí thức hiện nay.

* Ông Trần Đức Thảo đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000 trong lĩnh vực Khoa học xã hội.

Tác giả