Kỹ năng và năng lực cho khoa học mở: Thách thức và gợi ý cho Việt Nam

Khoa học mở là vấn đề lớn, liên ngành, liên lĩnh vực, và trong điều kiện của Việt Nam thì nó là vấn đề của liên bộ. Vì vậy, cần có những chính sách và sự điều phối các hoạt động của khoa học mở được tốt, bao gồm cả các hoạt động huấn luyện đào tạo để đáp ứng các kỹ năng và năng lực của khoa học mở.


Ủy ban châu Âu – EC (European Commission) đã ra ‘Tuyên bố Đám mây Khoa học Mở châu Âu’ với mục tiêu tạo ra một nền tảng cho truy cập mở, từ đó thúc đẩy khoa học mở. Nguồn ảnh: Openscience

Ngày nay, khoa học mở không còn là khái niệm trừu tượng chỉ mang tính lý thuyết nữa, mà nó đang và sẽ trở thành dòng chính thống từ nay trở đi, nhất là sau cuộc họp của các bộ trưởng khoa học các nước G7 tại Turin, nước Ý, ngày 28/09/2017 gồm Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Anh và Mỹ cùng với Ủy viên châu Âu về Nghiên cứu, Khoa học và Cách tân, nơi các bên tham gia đã ra thông cáo chung1 thừa nhận, khẳng định và ủng hộ việc ứng dụng và phát triển khoa học mở trong thời gian tới.

Gần một tháng sau sự kiện trên, ngày 26/10/2017, Ủy ban châu Âu – EC (European Commission) đã ra ‘Tuyên bố Đám mây Khoa học Mở châu Âu2’, gọi tắt là Tuyên bố EOSC (European Open Science Cloud), khẳng định tới năm 2020 sẽ làm cho tất cả các dữ liệu nghiên cứu khoa học sử dụng tiền từ khu vực nhà nước sẽ ‘mở mặc định’ theo các nguyên tắc: tìm thấy được, truy cập được, tương hợp được và sử dụng lại được – FAIR (Findable, Accessible, Interoperable, Re-usable), mở ra các cơ hội mới về nghiên cứu và cách tân trong khoa học không chỉ dành riêng cho các nhà khoa học của châu Âu, mà toàn thế giới.

Để có thể hiện thực hóa được EOSC, EC đã ban hành hàng loạt các tài liệu chỉ dẫn, một trong số đó là tài liệu ‘Cung cấp cho các nhà nghiên cứu các kỹ năng và năng lực họ cần để thực hành khoa học mở’, được EC xuất bản vào tháng 7/2017, nó liệt kê các kỹ năng đặc thù các nhà nghiên cứu cần có để làm khoa học mở và đưa ra các khuyến cáo chính sách cho các bên tham gia đóng góp ở mức châu Âu, quốc gia, và cơ sở để nâng cao nhận thức, huấn luyện, hỗ trợ, và khuyến khích các nhà nghiên cứu đi theo khoa học mở.

Trước khi đi sâu hơn vào các kỹ năng đặc thù cho khoa học mở, cần thiết để nêu định nghĩa khoa học mở là gì.

Định nghĩa khoa học mở

EC định nghĩa khoa học mở như sau3:

Khoa học Mở đại diện cho tiếp cận nghiên cứu có tính cộng tác, minh bạch, và truy cập được. Một dải rộng lớn các hoạt động tới dưới cái ô Khoa học Mở, bao gồm xuất bản Truy cập Mở, Dữ liệu Mở, Máy tính bảng Mở , Rà soát lại Ngang hàng Mở, và Giáo dục Mở. Nó cũng bao gồm cả khoa học công dân, nơi những người không phải là các chuyên gia tham gia trực tiếp vào nghiên cứu. Khoa học Mở đi cùng với liêm chính nghiên cứu, và đòi hỏi nhận thức về pháp lý và đạo đức từ phía các nhà nghiên cứu. Động lực cho Khoa học Mở là phong trào nghiên cứu và thẩm định nghiên cứu minh bạch cũng như quyền sở hữu nhà nước của khoa học, đặc biệt là nghiên cứu được nhà nước cấp vốn.

Định nghĩa ở trên cho chúng ta thấy khoa học mở không chỉ đi với các kỹ năng mang tính kỹ thuật công nghệ, mà còn cả các kỹ năng về đạo đức từ phía các nhà nghiên cứu.

Các kỹ năng đặc thù khoa học mở và khái quát chung hiện trạng ở Việt Nam

Để có thể thực hành khoa học mở, việc huấn luyện và phát triển các kỹ năng khoa học mở là quan trọng và không thể thiếu.


 Hình 1: Bánh xe Khoa học Mở, mô tả các đặc tính và chỉ số chính của Khoa học Mở4, nhấn mạnh đặc biệt và trước nhất vào Truy cập Mở và Dữ liệu Mở.

Phù hợp với các đặc tính và chỉ số của Khoa học Mở được ưu tiên nhấn mạnh trước nhất theo Hình 1 ở trên, các kỹ năng Khoa học Mở của các nhà nghiên cứu có thể được chia thành 4 chủng loại lớn sau:

Các kỹ năng và sự tinh thông cần thiết cho xuất bản truy cập mở. Ở Việt Nam hiện nay khái niệm và các hoạt động liên quan tới truy cập mở tới các xuất bản phẩm hay xuất bản truy cập mở là chưa tồn tại.

Các kỹ năng và sự tinh thông về dữ liệu nghiên cứu, sản xuất, quản lý, phân tích/ sử dụng/ sử dụng lại, phổ biến dữ liệu và thay đổi hệ biến hóa từ “dữ liệu được bảo vệ mặc định” sang “dữ liệu mở mặc định”, trong khi vẫn tôn trọng các ràng buộc pháp lý và khác. Ở Việt Nam hiện nay chưa ở đâu có dữ liệu mở theo đúng định nghĩa như ở các quốc gia tiên tiến như châu Âu và Mỹ đang thực hành, lại càng không thể có nguyên tắc “dữ liệu mở mặc định” trong các nghiên cứu được nhà nước cấp vốn như chính sách EC đã nêu trong xây dựng và triển khai EOSC. Trong khi dữ liệu mở châu Âu được định hình theo các nguyên tắc tìm thấy được, truy cập được, tương hợp được và sử dụng lại được – FAIR (Findable, Accessible, Interoperable, Re-usable), thì dữ liệu mở ở Việt Nam còn chưa tồn tại, kể cả với các dữ liệu được cho là ‘mở’, nằm trong vùng được gắn nhãn ‘Dữ liệu mở’ trên trang chủ của Hệ tri thức Việt Số hóa (xem https://dulieu.itrithuc.vn/).

Các kỹ năng và sự tinh thông để hành động trong và ngoài cộng đồng hàn lâm và ngành nghề của riêng mình, bao gồm: (1) Các kỹ năng quản lý nghiên cứu; (2) Các kỹ năng pháp lý; (3) Các kỹ năng liêm chính nghiên cứu và đạo đức nghiên cứu. Các cơ sở giáo dục đại học và sau đại học của Việt Nam chắc chắn có cung cấp các kỹ năng như được nêu ở đây, dù nhiều khả năng là chưa phù hợp với khoa học mở, nhất là các kỹ năng pháp lý – khi có liên quan tới các vấn đề cấp phép mở cho các xuất bản phẩm và các dữ liệu nghiên cứu để chúng trở thành các xuất bản phẩm truy cập mở và các dữ liệu mở đúng.

Các kỹ năng và sự tinh thông là kết quả từ khái niệm chung và rộng về khoa học công dân, nơi các nhà nghiên cứu tương tác với công chúng nói chung để cải thiện tác động của khoa học và nghiên cứu.

Khái niệm khoa học công dân có lẽ cũng là rất mới đối với Việt Nam và nếu bạn tìm kiếm cụm từ ‘khoa học công dân’ thì hầu như sẽ không có kết quả nào được trả về, kể cả trên trang chủ của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Điểm mấu chốt

Trên thực tế, ở châu Âu, các kỹ năng khoa học mở không chỉ được đào tạo trong giới hàn lâm mà còn mở rộng sang nhiều đối tượng khác nữa bao gồm những người làm chính sách, các nhà xuất bản, các doanh nghiệp ở mọi quy mô từ các công ty khởi nghiệp cho đến các tập đoàn thông qua các hội thảo chuyên đề, các tài liệu khuyến cáo hoặc các webinar trên mạng. Những đối tượng này được gọi là “các bên tham gia đóng góp cho khoa học mở và các thành phần của nó”. Hơn thế nữa, việc huấn luyện các kĩ năng khoa học mở được khuyến cáo đưa vào trong chương trình giáo dục từ sớm, không chỉ ở trình độ đại học và sau đại học mà còn ngay ở cấp phổ thông trung học5.  

Cách tiếp cận và thực hành của khoa học truyền thống và khoa học mở trong từng thành phần của chúng là rất khác nhau, đôi khi ngược chiều nhau, ví dụ như: dữ liệu nghiên cứu chuyển từ “dữ liệu được bảo vệ mặc định” sang “dữ liệu mở mặc định”, trong khi vẫn tôn trọng các ràng buộc pháp lý và khác như được nêu ở trên; hay truy cập mở tới các xuất bản phẩm làm cho hệ thống truyền thông nghiên cứu chuyển từ chế độ người sử dụng trả tiền để được truy cập tới các xuất bản phẩm nghiên cứu sang chế độ tác giả trả tiền để được xuất bản các kết quả nghiên cứu của chính họ.

Chính sự khác biệt rất lớn và đôi khi ngược chiều nhau này giữa tiếp cận và thực hành khoa học truyền thống và khoa học mở đòi hỏi sự chuyển đổi lớn, tận gốc cách tư duy và thực hành khoa học và để vượt qua được thói quen vốn có từ nhiều thế kỷ nay trong tiếp cận và thực hành khoa học truyền thống sang khoa học mở. Đây là sự chuyển đổi không hề dễ dàng, nếu không nói là vô cùng khó khăn, vì nó liên quan tới sự thay đổi lớn của tất cả các bên tham gia đóng góp cho khoa học mở và từng thành phần của nó trong nhiều vấn đề, chỉ nêu ví dụ một vài vấn đề như trong các mô hình vận hành, mô hình tạo lập – phát triển, mô hình cấp phép, mô hình kinh doanh, và tới lượt nó, cần có sự điều phối, phối hợp để hài hòa hóa và tránh các xung đột lợi ích giữa tất cả các bên tham gia đóng góp đó.

Chắc chắn việc nói ‘hài hòa hóa lợi ích của tất cả các bên tham gia đóng góp cho khoa học mở và các thành phần của nó’ là dễ hơn rất nhiều lần so với việc hiện thực hóa nó, hay nói theo một cách dân dã, là nói luôn dễ hơn làm, biết rằng, nếu không có sự điều phối và/hoặc phối hợp, thì một cách tự nhiên, từng bên sẽ tối đa hóa lợi ích của mình mà không cần quan tâm tới lợi ích của các bên khác, và hệ quả là sự chuyển đổi từ khoa học truyền thống sang khoa học mở sẽ không bao giờ có cơ hội xảy ra.


Hình 2: Các bên tham gia đóng góp cho nghiên cứu và cách tân cung cấp huấn luyện về các kỹ năng Khoa học Mở (dữ liệu có nguồn gốc từ SPARC Europe).

Trên thực tế, sẽ không có bất kỳ cơ sở giáo dục nào ở bất kỳ cấp học nào, đặc biệt là các cơ sở giáo dục công lập, có thể mạo hiểm tiến hành các khóa huấn luyện đào tạo cho các đối tượng của khoa học mở khi chưa có chính sách chung về khoa học mở và các thành phần cơ bản của nó ở các mức cần thiết như chính phủ, tỉnh – bộ – ngành và cơ sở vì các lý do, như ở trên đã nêu, sự khác biệt quá lớn, đôi khi trái ngược nhau giữa khoa học truyền thống và khoa học mở, đồng nghĩa là hệ thống chính sách hiện hành với hệ thống chính sách cho khoa học mở, nếu có, chắc chắn sẽ có nhiều điểm khác nhau, đôi khi sẽ là trái ngược nhau hoàn toàn. Vì vậy, việc triển khai các hoạt động huấn luyện và giáo dục đào tạo các kỹ năng và năng lực cho khoa học mở chắc chắn sẽ có nhiều điều trái ngược hoàn toàn với các chính sách hiện hành, điều mà sẽ không có cơ sở giáo dục nào dám mạo hiểm để tiến hành khi chưa có các chính sách ở các mức cần thiết cho khoa học mở và các thành phần cơ bản của nó.

Vài gợi ý cho việc đáp ứng các kỹ năng và năng lực của khoa học mở

Khoa học mở là vấn đề lớn, liên ngành, liên lĩnh vực, và trong điều kiện của Việt Nam thì nó là vấn đề của liên bộ, như đã được trình bày trong bài ‘Thách thức và giải pháp để thúc đẩy giáo dục mở ở Việt Nam6’. Vì vậy để có thể có được chính sách và sự điều phối các hoạt động của khoa học mở được tốt, bao gồm cả các hoạt động huấn luyện đào tạo để đáp ứng các kỹ năng và năng lực của khoa học mở, cần thiết và cấp bách:

Thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về Khoa học mở do Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng đứng đầu với các đại diện của các bộ – ngành và các bên khác có liên quan.

Xây dựng đường lối chính sách chung cho khoa học mở với tầm nhìn dài hạn và quyết tâm cao độ, chứ không phải là chính sách đẽo cày giữa đường hoặc chính sách dù có nhưng không triển khai thực hiện vì không có chế tài nếu không triển khai thực hiện nó, điều đã từng xảy ra trong thời gian nhiều năm qua với các chính sách về công nghệ thông tin có liên quan tới ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở7 trong các cơ quan nhà nước, cùng với lộ trình các giai đoạn triển khai càng cụ thể càng tốt và được cập nhật thường xuyên qua thời gian.

Điều phối và xây dựng chính sách truy cập mở ở mức Chính phủ và khuyến khích xây dựng chính sách truy cập mở ở các mức tỉnh – bộ – ngành, cơ sở giáo dục và các viện nghiên cứu dựa vào sự đồng thuận của các bên tham gia đóng góp. Chính sách truy cập mở nên được xây dựng trước một bước hoặc, tối thiểu, được xây dựng cùng với chính sách dữ liệu mở và/hoặc tài nguyên giáo dục mở. Lý do cho điều này là bất kỳ tài nguyên giáo dục mở hay dữ liệu mở nào, trước hết, cũng là tài nguyên truy cập mở, và truy cập mở tới các xuất bản phẩm/dữ liệu có liên quan tới nhiều bên tham gia đóng góp.

Trên cơ sở các chính sách về khoa học mở, truy cập mở, dữ liệu mở và/hoặc tài nguyên giáo dục mở ở các mức giáo dục thích hợp tương ứng, các cơ sở giáo dục ở các mức tướng ứng đó sẽ xây dựng các tài nguyên cần thiết, ưu tiên là các tài nguyên giáo dục mở, để cung cấp cho các nhà nghiên cứu, cả thế hệ hiện hành và trong tương lai, các kỹ năng và năng lực họ cần để thực hành khoa học mở. Khi cung cấp các kỹ năng và năng lực cần thiết cho các đối tượng của khoa học mở, luôn ưu tiên tiến hành trước hết và triệt để, không bỏ sót, trong tất cả các cơ sở giáo dục thuộc khối sư phạm.

Loại bỏ hoàn toàn và vô điều kiện việc giáo dục công nghệ thông tin chỉ phụ thuộc vào một nhà cung cấp độc quyền duy nhất từ bậc tiểu học.

Còn quá sớm để nói tới một chiến dịch phát động các cơ sở giáo dục trong cả nước tiến hành huấn luyện đào tạo các kỹ năng và năng lực khoa học mở cho các đối tượng cần có nó khi chưa có chính sách khoa học mở và các thành phần cơ bản của nó ở các mức cần thiết với các chế tài cứng rắn và quyết liệt, đặc biệt là chính sách ở mức Chính phủ.
————
Giấy phép mở của bài viết: CC BY 4.0 Quốc tế8
Tham khảo:
1. Thông cáo của các bộ trưởng khoa học các nước G7,  https://www.dropbox.com/s/ywum8nfcgw7c6jz/G7%20Science%20Communiqu%C3%A9_Vi_25022018.pdf?dl=0, các mục số 19 và 20
2. Tuyên bố EOSC, https://www.dropbox.com/s/0txrq8row8vdq2l/eosc_declaration_Vi_23022018.pdf?dl=0
3. Cung cấp cho các nhà nghiên cứu các kỹ năng và năng lực họ cần để thực hành khoa học mở, https://www.dropbox.com/s/qc0cfjd80ipmvnx/os_skills_wgreport_final_Vi_01032018.pdf?dl=0, trang 8
4. http://ec.europa.eu/research/openscience/ index.cfm?pg=home§ion=monitor
5. Cung cấp cho các nhà nghiên cứu các kỹ năng và năng lực họ cần để thực hành khoa học mở, https://www.dropbox.com/s/qc0cfjd80ipmvnx/os_skills_wgreport_final_Vi_01032018.pdf?dl=0, trang 13
6. Thách thức và giải pháp để thúc đẩy giáo dục mở ở Việt Nam, đường link tới bài trên Tia Sáng
7. Phần mềm Việt Nam, mở và đóng, bao giờ công bằng?, http://vnfoss.blogspot.com/2014/05/phan-mem-viet-nam-mo-va-ong-bao-gio.html
8. https://creativecommons.org/licenses/ by/4.0/

 

Tác giả

(Visited 15 times, 1 visits today)