Cha tôi

Lòng thương yêu vô bờ bến đối với con người, sự gắn bó máu thịt với số phận của Đất nước, của Nhân dân… là những di sản tinh thần mà cha tôi đã để lại cho con cháu trong gia đình, ngoài ra không có gì khác.


GS Đặng Văn Ngữ (1910 – 1967). Ảnh: Gia đình cung cấp.

Vậy là đã hơn 50 năm từ ngày cha tôi ra đi vào cõi Vĩnh hằng. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ lại trong ký ức về cha tôi đó là một buổi chiều giáp Tết Đinh Mùi, cách đây đã hơn 50 năm… Trước khi lên đường đi vào Nam cha tôi hẹn đến thăm bố vợ tôi, Luật sư Nguyễn Quế. Sau bữa cơm đạm bạc với gia đình bên vợ tôi, cha tôi chia tay với tất cả mọi người rồi bế cháu Đặng Nhật Tân, đứa cháu đích tôn duy nhất từ gác hai xuống đến tận cửa xe com-măng-ca đỗ bên đường, trước khi trao nó lại cho tôi. Rồi cha tôi bước lên xe, ngồi vào ghế trước. Chiếc xe nổ máy chuyển bánh… Tôi bế con nhìn hút theo hai chiếc đèn đỏ sau xe cho đến khi chiếc xe đi khuất vào phố đêm… Tôi không hề có linh cảm rằng đó là cuộc chia tay cuối cùng với cha mình. Cha tôi thường hay đi công tác xa về các địa phương để chỉ đạo công tác phòng chống sốt rét. Những cuộc ra đi như vậy đã trở thành quá quen thuộc với gia đình chúng tôi. Nhưng hai tháng sau, tôi và em gái tôi là Đặng Nguyệt Ánh được bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Bộ Y tế, báo tin cha tôi đã hy sinh trong một trận bom B52 vào hồi 2 giờ trưa ngày 1 tháng 4 năm 1967 tại chiến khu Trị Thiên- Huế. Tôi không còn nhớ đã đón nhận cái tin sửng sốt kia như thế nào. Chỉ biết rằng từ giây phút đó cho đến tân bây giờ tôi vẫn còn bàng hoàng nghe văng vẳng bên tai câu nói của bác Thạch: Các cháu hãy can đảm đón nhận cài tin đau đớn này: Ba các cháu đã hy sinh… Báo xong cái tin đau đớn đó, bác nói tiếp sau vài giây im lặng: Đến bây giờ bác mới hiểu hết ba các cháu.
Trước khi cha tôi lên đường sang Nhật Bản nghiên cứu về y khoa, cha tôi đã đưa mẹ và ba anh em chúng tôi từ Hà Nội về Huế gửi cho ông bà nội chúng tôi. Suốt bảy năm dài mẹ tôi đã phải chịu cảnh đơn chiếc, hầu hạ chăm sóc bố mẹ chồng, hy sinh tất cả vì sự nghiệp khoa học của chồng. Cho đến năm 1949 cha tôi về nước tham gia Kháng chiến, mẹ tôi và ba anh em chúng tôi đã làm một cuộc trường chinh suốt ba tháng trời đi bộ từ Huế ra Khu 4, rồi từ Khu 4 lên Việt Bắc để sum họp với cha tôi. Nhưng cuộc hội ngộ ấy kéo dài vẻn vẹn chưa đầy bốn năm thì mẹ tôi qua đời sau một cơn tai biến.
Những năm sau hòa bình lập lại, công cuộc tiêu diệt sốt rét trên miền Bắc là công việc chiếm nhiều sức lực và trí tuệ nhất của cha tôi. Đó là lẽ sống và là niềm say mê lớn nhất của cha tôi khi không còn mẹ tôi ở bên cạnh. Tôi nhớ có lần cha tôi bỏ ra một ngày chủ nhật để ngồi viết một truyện thiếu nhi nhằm giáo dục cách phòng chống sốt rét, rồi đọc cho tôi nghe. Một truyện ngắn giản dị có nhân vật chính là hai ông cháu. Có lẽ đó là truyện ngắn duy nhất mà ông viết trong đời. Cha tôi đã làm tất cả những gì có thể làm chỉ vì một mục tiêu duy nhất là tiêu diệt bệnh sốt rét và ông đã làm được điều đó trên toàn miền Bắc nước ta trong một thời gian dài. Có một vật có thể nói là gần gũi nhất với cha tôi đó là chiếc kính hiển vi. Nó có mặt thường xuyên ngay cả trong phòng ngủ của cha tôi ở khu tập thể của Viện Sốt rét tại Mễ Trì. Trước đó khi còn ở trong căn hộ được phân trên phố Hàn Thuyên, cứ cơm tối xong là cha tôi đi bộ vào Trường Y trên đường Lê Thánh Tông, cách nhà chừng 300 mét, làm việc trong phòng thí nghiệm cho đến 10 giờ tối. Ngày cha tôi trở về nước tham gia kháng chiến, suốt chặng đường dài từ Nhật Bản qua Thái Lan, từ Thái Lan đi bộ băng qua Lào về Nghệ An , rồi từ Nghệ An lên Việt Bắc, trong hành trang của cha tôi ngoài hai bộ quần áo kaki có một lọ đựng một thứ nấm có khả năng tiết ra chất kháng sinh, mà từ đó cha tôi đã chiết xuất ra nước lọc Penicilline để cứu chữa các vết thương cho bộ đội. Trong hành trang của cha tôi mang từ Nhật về còn có một chiếc kính hiển vi nho nhỏ chỉ bằng một gang tay nhưng có đủ cả ống kính, gương phản chiếu và bộ phận điều chỉnh tiêu cự. Đó là món quà cha tôi đem về cho tôi. Tôi biết cha tôi muốn con mình sau này đi vào con đường nghiên cứu y học nối nghiêp cha tôi.&nb

Niềm say mê lớn nhất của cha tôi là nghiên cứu khoa học và phòng thí nghiệm là thánh đường. Kể cả những lúc làm việc một mình trong phòng thí nghiệm cha tôi cũng đeo cravatte chỉnh tề. Nhưng không phải vì vậy mà cha tôi không quan tâm đến những chuyện đời thường của những người sống quanh mình.. Nhiều năm liền cha tôi là Thư ký Công đoàn của trường Đại học Y Hà Nội. Một thời gian cha tôi là Chủ tịch Ban liên lạc Hội đồng hương Thừa Thiên-Huế ở Hà Nội. Thú vui giải trí mà cha tôi ưa thích là xem bóng đá. Cha tôi không vắng mặt bất kỳ trận đá bóng quan trọng nào đặc biệt các trận có đội Thể Công. Cha tôi ít khi xem phim, xem kịch. Thời giờ rỗi rãi ông chỉ thích nghe ca Huế qua đài đặc biệt với giọng ngâm của nghệ sỹ Châu Loan. Những lúc ấy tôi biết cha tôi rất nhớ Huế, nơi có bà nội tôi lúc đó đã ở cái tuổi gần đất xa trời. Kể từ ngày cha tôi sang Nhật cho đến khi về lại Hà nội tổng cộng cha tôi đã xa Huế hơn 20 năm. Trong chuyến đi vào chiến trường năm ấy ngoài việc nghiên cứu vắc xin chống sốt rét cho bộ đội, tôi biết cha tôi còn ấp ủ một hy vọng nữa là được gặp lại bà nội tôi. Bà tôi chắc cũng mong điều đó nên cố sống để chờ ngày gặp con. Nhưng rồi không gặp được nên bà tôi cũng ra đi ngay sau khi cha tôi mất chỉ mấy tháng. Tại nơi tập trung ở Hòa Bình để luyện tập trước khi vào chiến trường, cha tôi viết thư về dặn vợ chồng tôi: 
“Thỉnh thoảng các con xuống Viện Sốt rét, vào căn phòng của Ba, lau chùi dọn dẹp trong phòng. Đồ đạc cứ để nguyên như cũ… như khi Ba đi công tác xa”. Cuối thư cha tôi còn dặn thêm: “Có đôi bít tất để trong tủ Ba chưa kịp giặt, các con giặt giùm”. Căn phòng ở của cha tôi tại Viện Sốt rét là một căn phòng rộng 15m2 ở tầng hai khu tập thể của Viện. Giữa phòng kê một chiếc giường đệm cỏ phủ khăn trải giường trắng, cạnh đó một bộ sa lông gỗ gồm hai ghế và một bàn tròn đặt gần cửa sổ. Ở một góc là chiếc bàn làm việc với sách vở và chiếc kính hiển vi, một góc khác là chiếc tủ đựng quần áo. Đồ đạc riêng đáng giá nhất có lẽ là chiếc đài điện tử nhãn hiệu TESLA của Tiệp Khắc màu cánh gián. Đó là toàn bộ tài sản riêng của cha tôi. Tiếc rằng năm tháng sau khi cha tôi mất thì căn phòng đó cũng bị bom Mỹ đánh sập không còn lại bất cứ kỷ vật gì. Sau đó Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng đã phục hồi lại nguyên trạng căn phòng đó với đủ đồ đạc bên trong như hồi cha tôi còn sống. Khác chăng là có thêm chiếc bàn thờ có di ảnh cha tôi mà mỗi rằm, mồng một hay ngày giỗ cha tôi các anh chị em trong Viện vẫn thường hương khói. Mỗi lần đọc lại bức thư cuối cùng của cha tôi, tôi thấy ông không hề linh cảm rằng mình ra đi vĩnh viễn, còn đối với chúng tôi con cái trong gia đình thì cho đến bây giờ cha tôi vẫn còn đó, đang đi công tác xa… Làm gì, ở đâu, chúng tôi đều cảm thấy ông luôn ở bên cạnh. Năm 1991 tôi có dịp đến Nhật Bản. Theo lời giới thiệu của GS Nguyễn Lân Dũng, tôi liên lạc được với bà Seino, người trước kia có một thời gian làm phụ tá cho cha tôi tại phòng thí nghiệm trường Đại học Y khoa Tokyo. Bà cùng chồng mình đón tôi như người thân trong gia đình, đưa tôi đi thăm lại những nơi cha tôi từng sống và làm việc. Tại Đông kinh học xá nơi các sinh viên nước ngoài trước đây cư trú, người ta cho tôi biết địa chỉ của một người Việt Nam trước kia cùng sống chung với cha tôi trong một căn phòng. Người đó là Kỹ sư Lê Văn Quý, hiện sống ở thành phố Atami cách Tokyo hơn 100 km. Tôi liền đến thăm bác Quý và được bác kể về quãng thời gian cùng sống với cha tôi tại Nhật Bản. 
 

GS Đặng Văn Ngữ khám bệnh cho một em bé người dân tộc trên Chiêm hóa,  Tuyên Quang.

Bác Quý chỉ cho tôi xem một tấm bằng lồng trong khung kính treo trang trọng trên bức tường giữa phòng khách rồi nói: “ Đây là kỷ niệm quý giá nhất của bác trên đất Nhật. Đó là tấm bằng của Thị trưởng thành phố Tokyo trao cho bác cuối năm 1945 ghi nhận công lao vì đã cứu giúp người Nhật trong thời gian chiến tranh. Ba cháu cũng có một tấm bằng như thế này. Hồi chiến tranh Tokyo bị ném bom dữ lắm. Ba cháu đã tập hợp các sinh viên Việt Nam và nước ngoài ở Đông kinh học xá thành lập các đội cứu thương để cứu chữa cho nhân dân trong khu phố. Ba cháu hướng dẫn nghiệp vụ cấp cứu cho mọi người và đã cứu chữa cho biết bao nhiêu trường hợp bị thương, đặc biệt các ca bị bỏng vì bom. Ba cháu chữa các vết bỏng giỏi lắm. Sau khi chiến tranh kết thúc, Tòa thị chính Tokyo đã tặng cho mỗi người trong đội cứu thương một tấm bằng như thế này để ghi công”. Ấn tượng của Bác Quý về cha tôi là suốt ngày ông chỉ biết học, miệt mài nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ngoài ra không quan tâm đến chuyện gì khác. Tuy vậy khi nước nhà giành được Độc lập thì cha tôi luôn theo dõi tin tức về cuộc kháng chiến đang diễn ra trong nước rồi thông tin lại cho anh chị em sinh viên Việt Nam. Cha tôi được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Hội người Việt Nam tại Nhật Bản. Chính ngọn lửa của lòng yêu nước ấy đã thôi thúc cha tôi từ giã nước Nhật, trở về với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Bà Seino còn liên hệ cho tôi được gặp Giáo sư Tomio Takeuchi. Giám đốc Viện Hóa vi sinh Tokyo (Institute of Microbial Chemistry). Trên đường đi tới Viện, bà Seino cho biết Giáo sư Tomio là một trong những nhà bác học nổi tiếng của Nhật Bản. Người Nhật thường gọi họ là những người bất tử vì được mời làm việc cho đến trọn đời, không phải về hưu. Giáo sư hẹn tiếp tôi trong 30 phút vì ông còn bận lên lớp. Ông nói với tôi: Tôi có làm việc chung với cha anh tại trường Đại học Y khoa Tokyo trong một thời gian. Cha anh lúc đó là đàn anh của tôi. Các công trình nghiên cứu, các bài báo đăng trên các tạp chí Y khoa chúng tôi đều viết chung và tên cha anh bao giờ cũng đứng trước tên tôi. Con đường khoa học của cha anh lúc bấy giờ đang rộng mở, nhất là sau khi ông phát hiện lần đầu tiên tại Nhật một giống nấm có khả năng tiết ra chất kháng sinh Penicilline. Rồi nước Nhật bại trận. Công cuộc nghiên cứu gặp nhiều khó khăn. Tôi biết người Mỹ đã nhiều lần tìm đến gặp cha anh để mời làm việc. Nhưng cha anh đã từ chối để trở về nước”. Rồi giáo sư sai người đem ra những tập san Y học chỉ cho tôi xem những bài viết mà cha tôi và ông cùng đứng tên chung. Chia tay giáo sư Tomio trên đường về tôi thầm nghĩ: Nếu ngày đó cha tôi ở lại Nhật để tiếp tục theo đuổi con đường nghiên cứu khoa học, hẳn ông cũng sẽ trở thành một nhà bác học lớn như Giáo sư Tomio Takeuchi, hẳn ông sẽ còn có những đóng góp giá trị cho nền y học của nhân loại, nhưng ông sẽ không được chia sẻ những vinh quang cũng như những khổ đau của đất nước mình, của dân tộc mình. Trong con người của cha tôi niềm say mê khoa học và lòng yêu nước là những phẩm chất không thể tách rời.Thật vậy, cha tôi đã chia sẻ đến tận cùng số phận của đất nước, của nhân dân mình cho đến khi ông ngã xuống trên rừng Trường Sơn trong một trận bom B52 như bất cứ một người lính nào đã ngã xuống trên suốt dải đất này vì sự nghiệp cao cả và thiêng liêng của Tổ quốc.
Cha tôi nằm trên Trường Sơn lặng lẽ suốt hai mươi năm cho đến khi tình cờ một người tiều phu phát hiện được mộ ông như mộ một người lính vô danh. Trong gói vải dù bọc một ít di hài của ông chỉ có một tấm biển nhôm khắc vẻn vẹn mấy chữ: Đặng Văn Ngữ. 1-4-1967. Người ta nghĩ rằng đó là hài cốt của một chiến sĩ nào đó chưa rõ tông tích nên đã quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Cha tôi còn nằm đó thêm 5 năm nữa cho đến khi anh em chúng tôi dò tìm ra được. Suốt 5 năm đó người chăm sóc hương khói cho cha tôi là các thầy cô giáo cùng các em học sinh truờng Tiểu học xã Phong Mỹ. Ngôi trường nằm ngay cạnh nghĩa trang chỉ cách một con đường. Hằng năm cứ đến Ngày Thương binh Liệt sỹ, ngày Quốc khánh, ngày Tết thầy trò của trường sang quét dọn nghĩa trang, cắm những bó hoa và thắp hương trên những ngôi mộ. □

 

Tác giả