Christa Ludwig: người khổng lồ của opera và lieder

Là một trong những ca sĩ xuất sắc nhất thế hệ mình, sự qua đời của Christa Ludwig ở tuổi 93 là một mất mát to lớn đối với thế giới opera nói riêng và nhạc cổ điển nói chung. Tất cả những nhà hát nổi tiếng nhất trên thế giới đều dành cho bà những lời lẽ kính trọng và tôn vinh những cống hiến vĩ đại mà Ludwig đã dành cho những người yêu nhạc.


Ludwig gắn bó với ViennaState Opera và cộng tác với những nhạc trưởng vĩ đại và có ảnh hưởng nhất đối với sự nghiệp của mình: Böhm, Karajan và Leonard Bernstein. Nguồn: Twitter

Sở hữu một giọng mezzo-soprano tuyệt đẹp với nhạc cảm xuất sắc và kỹ thuật hoàn hảo, qua năm tháng, Christa Ludwig đã khẳng định mình là người khổng lồ trong cả lĩnh vực opera và lieder. Không chỉ có vậy, với âm vực rộng, bà còn hát trong những vai vốn dành cho giọng nữ cao như Die färberin (Die frau ohne schatten, Richard Strauss), Lady Macbeth (Macbeth, Verdi) và đặc biệt là Leonora (Fidelio, Beethoven) mà bản thu âm vở opera này được bà thực hiện cho EMI Classics cùng Jon Vickers và nhạc trưởng Otto Klemperer đã trở thành kinh điển. Trong aria Abscheulicher!, bà đóng đinh một nốt Si cao với bầu không khí phấn khích làm tỏa ra cảm giác hy vọng của nhân vật một cách thật khó quên. Bà luôn giành được tình cảm và sự ngưỡng mộ khán giả ở bất cứ nơi nào bà xuất hiện.

 

Sinh ra từ opera

 

Christa Ludwig sinh ra tại Berlin vào ngày 16/3/1928 trong một gia đình có cả bố và mẹ đều là ca sĩ opera. Cha của Christa, ông Anton Ludwig là một ca sĩ giọng baritone cũng như một số vai giọng tenor, sau này chuyển sang làm quản lý tại một nhà hát opera còn mẹ cô, bà Eugenie Besalla-Ludwig là giọng mezzo-soprano, người từng hát tại nhà hát Aachen Opera trong thời kỳ Herbert von Karajan làm nhạc trưởng ở đây (1935-1942). Chính Christa sau này kể lại là hồi bé, Karajan đã từng bế cô chơi đùa. Gia đình chuyển đến sống tại thành phố Aachen và mẹ cô chính là giáo viên thanh nhạc đầu tiên. Trong những ký ức tuổi thơ, cô bé vẫn nhớ những buổi biểu diễn của mẹ trong các vở Fidelio và Elektra (Richard Strauss) dưới đũa chỉ huy của Karajan. Đó là những trải nghiệm tuyệt vời của Christa, sau này nhớ lại trong cuốn hồi ký viết năm 1993 “Những lời của riêng tôi”, bà cho biết: “Tôi thực sự đã sống trong nhà hát”. Khi lên tám tuổi, Christa từng hát một aria của Nữ hoàng đêm tối trong vở Cây sáo thần (Mozart). Tuy nhiên, ở tuổi 40, Eugenie Besalla-Ludwig đã tự hủy hoại giọng hát của mình khi đảm nhận những vai nữ cao và phải giã từ sự nghiệp. Bà quyết tâm rằng con gái mình sẽ không phạm phải sai lầm tương tự.

Những năm tháng đầu đời của Christa gắn liền với bóng đen của Đức quốc xã và cô chỉ cố gắng nhớ về những gì may mắn: “Tại trường, tôi học nhảy cóc một năm và là người trẻ nhất trong lớp. Một hôm, có sĩ quan của Đức quốc xã tới trường và nói “hôm nay tất cả mọi người đều có được vinh dự gia nhập Đảng”. Nhưng tôi trẻ hơn một tuổi và họ không cho tôi vào, tôi đã rất buồn khi là người duy nhất không thể gia nhập”, cô cười lớn khi nhớ về thuở ngây thơ của mình. Cô được bố mẹ cho theo học tại nhạc viện Aachen. Tại đây, Christa được giáo dục khá toàn diện, học piano, flute, cello và lý thuyết âm nhạc. Cô chơi piano rất tốt và sau này thường tự vỡ bài cho mình. Sau đó, gia đình cô chuyển tới Hanau, cách Frankfurt 25km về phía Đông. Ngôi nhà của gia đình từng bị bom của quân Đồng minh phá hủy. Họ được cấp một ngôi nhà mới với một cây đàn piano từng được binh lính sử dụng. Trong thời gian này, Christa hát trong các buổi hòa nhạc tại nhà thờ địa phương và theo học tại Musikhochschule Frankfurt. Sau khi chiến tranh kết thúc, cô thường hát các bài hát của Gerswhin tại câu lạc bộ sĩ quan Mỹ để đổi lấy thuốc lá, thứ tiền tệ duy nhất có giá trị vào thời điểm đó.

Từ năm 1946, Ludwig bắt đầu con đường trở thành ca sĩ opera chuyên nghiệp khi trở thành thành viên của nhà hát Frankfurt Opera. Vai diễn đầu tiên của cô là Hoàng tử Orlofsky trong operetta Con dơi (Johann Strauss) tại Städtische Bühnen ở Frankfurt. Đây là một vai Travesti (giới tính của ca sĩ và nhân vật là trái ngược nhau), hay còn gọi là trouser roles (những vai “mặc quần” để chỉ nữ hát vai nam), như một định mệnh của số phận khi Ludwig luôn tỏ ra rất ghét phải mặc trang phục của các vai này nhưng hầu hết chúng đều mang lại danh tiếng to lớn cho cô: như Cherubino (Le nozze di Figaro, Mozart), Octavian (Der Rosenkavalier, Richard Strauss) hay Composer (Ariadne auf Naxos, Richard Strauss). Trong giai đoạn này, cô vừa hát vừa luyện tập thanh nhạc với người mẹ của mình. Sau sáu năm ở Frankfurt, cô gia nhập nhà hát Darmstadt State trong hai mùa diễn và năm 1954, Ludwig đến Hanover.


 Năm 2018, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của bà, Hãng Dautsche Grammophone đã phát hành album này. 

Nhận ra khả năng tiềm tàng của Ludwig, nhạc trưởng đại tài Karl Böhm đã mời cô đến hát tại Vienna State Opera vào năm 1955, vai diễn đầu tiên của cô tại đây là Cherubino vào ngày 14/4. Những nốt cao trong một số vai nhất định vẫn lẩn tránh cô, nhưng với sự giúp đỡ của mẹ, âm vực của Ludwig đã được mở rộng một cách liền mạch mà vẫn giữ được vẻ đẹp đặc trưng cho giọng hát. Những gì thừa thãi, góc cạnh cũng được gọt giũa để giọng hát của cô trở thành một nhạc cụ gợi cảm nhất như chúng ta đã từng thưởng thức. Mặc dù thừa nhận vai trò của mẹ trong việc đào tạo mình trở thành một ca sĩ opera chuyên nghiệp, Ludwig cho biết mối quan hệ giữa hai mẹ con không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Năm 1957, Ludwig kết hôn với giọng bass-baritone nổi tiếng Walter Berry, người gia nhập Vienna State Opera cùng thời điểm với cô. Họ đã hát cùng nhau trong khá nhiều vở opera, kể cả sau khi chia tay vào năm 1970. Mặc dù sau này cô cũng trở nên nổi tiếng tại Mỹ cũng như khắp châu Âu, gây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với các nhà hát ở New York, Milan, London, Berlin nhưng Vienna vẫn là trung tâm âm nhạc trong cuộc đời của cô. Ludwig đã gắn bó với ViennaState Opera trong hơn 30 năm với 769 buổi biểu diễn và 42 vai. Tại đây, cô đã có cơ hội cộng tác với những nhạc trưởng vĩ đại và có ảnh hưởng nhất đối với sự nghiệp của mình: Böhm, Karajan và Leonard Bernstein. Với họ cô đã học được tất cả những gì cần biết về âm nhạc: Böhm cho sự chính xác. Karajan cho vẻ đẹp của âm thanh và những đường legato còn Bernstein là sự biểu cảm và niềm vui của âm nhạc. Cô đặt tên cho ba cây bách trong vườn nhà mình theo tên của những nhạc trưởng lừng danh này.

Ludwig luôn nhớ về Bernstein với một tình cảm ấm áp: “Tôi bắt đầu làm việc cùng ông ấy vào năm 1967, khi tôi đã 40 tuổi. Chúng tôi biểu diễn bản giao hưởng số 2 của Mahler. Đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Với tôi, ông ấy là điều tuyệt vời nhất hơn tất cả. Ông ấy là một thiên tài, người luôn tìm kiếm những gì sâu sắc nhất trong âm nhạc”. Còn với Karajan, đó là người nhạy cảm nhất đối với các ca sĩ: “Bernstein yêu các giọng hát nhưng thực sự ông ấy không biết những ca sĩ cần gì. Ông ấy không có ý tưởng gì về việc ca sĩ khi nào cần thở hay những thứ tương tự. Karajan thì biết những chỗ nào sẽ khó khăn. Và nếu ai đó có giọng tồi, ông ấy sẽ chơi thật to để át đi đến mức không ai có thể nghe thấy. Tất nhiên, khán giả sau đó sẽ đến và ái ngại: “Dàn nhạc quá to đến mức tôi không thể nghe bạn hát”. Điều đó thật tuyệt vời đối với một ca sĩ”!

 

Vươn lên đỉnh cao bằng sự tinh tế và quyến rũ

 

Dưới sự dẫn dắt của Böhm, Ludwig ngày càng trở nên xuất sắc, danh tiếng của bà đã vươn xa. Những vai diễn chủ yếu của bà trong thời gian này là Dorabella (Così fan tutte, Mozart), Cherubino, Octavian, Composer, Carmen (Carmen, Bizet) và một số vở opera của Wagner. Không chỉ đóng đinh trong những vai dành cho giọng mezzo-soprano, Ludwig cũng hát một số vai giọng soprano như Marschallin, Die färberin, Lady Macbeth và Leonora. Ngày 9/11/1959, Ludwig ra mắt khán giả Mỹ tại Lyric Opera of Chicago với vai Dorabella bên cạnh Elisabeth Schwarzkopf, Léopold Simoneau và chồng mình. Ngay sau đó, ngày 10/12/1959, bà hát buổi đầu tiên tại Metropolitan Opera, New York với Cherbuino dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Erich Leinsdorf, mở đầu cho một sự cộng tác lâu dài hơn 30 năm với 119 buổi biểu diễn trong 15 vai. Nhà phê bình Louis Biancolli đã nhận xét sau đêm diễn: “Là trung tâm của đêm diễn. Một giọng hát trong sáng, ấm áp. Ludwig là một Cherubino sống động và đáng tin cậy. Bà hát chính xác và đồng đều, từng giai điệu rõ ràng và chân thực. Mọi sự tung hô đều hoàn toàn xứng đáng”. Những vai diễn của Ludwig tại Met hầu hết tập trung ở những vở opera của Richard Strauss và Wagner, thế mạnh tuyệt đối của bà nhưng cũng có những bất ngờ thú vị như Amneris (Aida, Verdi) hay Charlotte (Werther, Jules Massenet). Tổng giám đốc của Met, Peter Gelb nhận xét: “Mùa giải diễn tiên của bà tại Met năm 1959-1960 là của những huyền thoại khi bà hát Octavian, Marschallin, Brangäne (Tristan und Isolde, Wagner) và Amneris, tất cả đều cách nhau vài tháng. Ngay cả khi phần lớn sự nghiệp của bà tập trung ở châu Âu, chắc chắn Ludwig được khán giả Met coi là một trong những giọng nữ trung vĩ đại nhất của nửa sau thế kỷ 20”.

Ludwig đã thổi một giọng hát quyến rũ, nồng nàn vào những màn trình diễn căng thẳng trong những vở opera của Richard Strauss và Wagner. Bà đã vươn lên đỉnh cao của thế giới ca hát bằng một thứ kỷ luật thép và không chịu thỏa hiệp. Karajan có lần đã đề nghị Ludwig hát Isolde, một trong những vai diễn nặng nhất dành cho soprano nhưng bà đã lập tức từ chối. Ludwig kể lại với Böhm về việc này. Böhm giận dữ: “Đó thật sự là một tội ác”. Nhưng chỉ sau một thoáng suy nghĩ, ông lại nói: “Nhưng với tôi thì cô có thể hát nó”. Dù rằng từng hát aria “Mild und Leise” cùng Klemperer nhưng không bao giờ Ludwig đóng vai này trong suốt sự nghiệp mình. Ludwig vô cùng cẩn thận trong việc giữ gìn giọng hát. Bà thường “nghĩ về dây thanh quản của mình cả ngày lẫn đêm” và tránh xa rượu, thuốc lá. Vào những ngày biểu diễn, bà chủ yếu giao tiếp bằng cách huýt sáo hoặc ghi ra giấy. Ludwig cũng cho biết về sự căng thẳng sân khấu của mình: “trước và trong khi biểu diễn và niềm vui sau đó nhanh chóng bị phá hỏng vì những suy nghĩ về buổi biểu diễn tiếp theo”.

Thập niên 1960 và 1970 là thời kỳ hoàng kim đối với giọng hát của Ludwig. Năm 1960, bà hát trong Adalgisa (Norma, Vincenzo Bellini) cùng Maria Callas và Franco Corelli; năm 1962, cùng Jon Vickers và chồng mình, bà thu âm vở opera Fidelio cùng Klemperer và Philharmonia Orchestra, tất cả đều do EMI Classics thu âm. Bên cạnh sự nghiệp opera, bà cũng có một sự nghiệp hát lieder rất thành công và được coi là một trong những ngôi sao lớn trong lĩnh vực này, bên cạnh Dietrich Fischer-Dieskau và Schwarzkopf. Ludwig là một trong không nhiều nữ ca sĩ biểu diễn và thu âm tập bài hát Winterreise của Franz Schubert. Các màn trình diễn của bà trong các lieder của Schumann, Brahms, Wolf và Strauss với sự chính xác tới từng chi tiết đã được nhiều người ngưỡng mộ. Ludwig hát lieder ngay từ khi mới bắt đầu sự nghiệp: “Lieder bạn hát từ khi còn nhỏ. Không phải cùng một thứ, thậm chí không phải cùng một giọng, để hát cả lieder và opera. Khi tôi bắt đầu sự nghiệp, tôi quá trẻ để hát opera vì vậy tôi đã hát mọi bài hát. Tôi hát Nono và Boulez. Mọi thứ với tôi khá dễ dàng, tôi học mọi thứ nhanh chóng và có một chất giọng tốt… Tôi nghĩ tất cả đều thú vị, sau đó tôi không hát Webern và Schoenberg nữa. Đó không phải gu của tôi, tôi thích Mahler, Brahms và Strauss hơn”.

Cùng với đó, Ludwig cũng xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm thanh nhạc lớn, đặc biệt là Johann Sebastian Bach và Gustav Mahler. Bà đã thu âm hầu hết các tác phẩm thanh nhạc chính của Bach và là một trong những ca sĩ diễn giải Mahler xuất sắc nhất mọi thời đại. Nhà phê bình âm nhạc Anne Midgette của The Washington Post nhận xét: “Nếu bạn muốn hát tiếng Đức, bạn không thể làm gì tốt hơn là lắng nghe Ludwig, người hát những ca khúc nghệ thuật Đức với một sắc thái và cảm xúc kỳ lạ, đồng thời cũng không thiếu sự cầu kỳ mà chỉ những người xuất sắc nhất mới có được… Bài hát cuối cùng “Lời từ biệt” trong Bài ca trái đất sẽ khiến trái tim bạn tan nát… Khi bạn nghe Ludwig hát, đó là một thứ âm nhạc thuần khiết”. Năm 1966, bà lần đầu xuất hiện tại Bayreuth Festival với vai Brangäne và năm 1968, Ludwig ra mắt khán giả Royal Opera House, Covent Garden, London với Amneris. Bà rất tích cực trong việc mở rộng danh mục biểu diễn của mình, chủ yếu trong những vai mezzo-soprano trữ tình và kịch tính, trải dài từ Baroque đến hiện đại. Có thể kể đến Octavia (L’incoronazione di Poppea, Claudio Monteverdi), Didon (Les Troyens, Hector Berlioz), Eboli (Don Carlo, Verdi) mà bà từng có buổi biểu diễn rất thành công tại La Scala, Milan hay Salzburg Festival, Ulrica (Un ballo in maschera, Verdi), Marie (Wozzeck, Alban Berg)…

Vào những năm 1970, sự nghiệp của Ludwig gặp trở ngại khi các tĩnh mạch mao mạch trong cổ họng bà bị vỡ. Bà nhớ lại với Associated Press vào năm 2001: “Đó là một trải nghiệm cần thiết cho nghệ thuật của tôi. Tôi thích vượt qua những chướng ngại vật, nếu không thì cuộc sống thật nhàm chán”. Tháng 11/1971, bà ra mắt nhà hát Opera Paris trong một chương trình hát thính phòng và nhận được sự tung hô nhiệt liệt, bà phải ra chào khán giả 10 lần khi kết thúc buổi biểu diễn. Năm 1972, sau khi li dị Berry, bà kết hôn với đạo diễn sân khấu người Pháp Paul-Emile Deiber. Ludwig trở thành một ngôi sao sáng và bà không ngại thể hiện vị thế của mình. Bà luôn thể hiện phong thái của một diva, diện những bộ quần áo đắt tiền nhưng thanh lịch, ở trong những khách sạn sang trọng nhất và luôn có đám đông người hâm mộ vây xung quanh. Trên sân khấu, Ludwig thể hiện sự kết hợp nổi bật giữa khả năng diễn xuất, thần thái và vẻ đẹp trong giọng hát. Giọng hát của bà có sức mạnh, sự tinh tế và quyến rũ trên toàn bộ âm vực cũng như khả năng thể hiện thông minh, đa dạng, đầy màu sắc.

Năm 1981, bà trở thành thành viên danh dự của Vienna State Opera. Với tư cách này, một trong những quyền của bà là quan tài sẽ được đặt trong tiền sảnh của nhà hát khi qua đời và sau đó được chôn cất theo nghi thức trang trọng tại nghĩa trang chính của Vienna. Ludwig cũng nhận được vô số danh hiệu và giải thưởng từ khắp các nhà hát và tổ chức trên thế giới.

Trong những năm 1993-1994, Ludwig tổ chức nhiều buổi hòa nhạc chia tay sự nghiệp biểu diễn tại các thành phố. Trong đó đáng kể có đêm diễn tại Met vào ngày 3/4/1993 với vai Fricka (Die Walküre, Wagner) dưới sự chỉ huy của James Levine và ngày 14/12/1994 tại Vienna State Opera với Klytemnestra (Elektra). Sau đêm diễn, bà cảm thấy nhẹ nhõm và thổ lộ: “Tôi không còn có thể cạnh tranh với chính mình. Tôi đi qua Vienna mà không có khăn quảng cổ với cái cổ đề trần và tôi đã rất hạnh phúc”. Sau khi giã từ sự nghiệp, Ludwig gắn bó với công việc dạy học, truyền lại cho các thế hệ sau những kinh nghiệm mà mình đã đúc kết hơn trong nửa thế kỷ gắn bó với ca hát. Bà luôn khuyến khích các học trò của mình lắng nghe những đường nét tinh tế nhất của giai điệu, sắc thái của âm nhạc và luyện tập nhả chữ. Năm 2018, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của bà, Warner Classics đã phát hành “The Complete Recitals”, một kho tàng các lieder và các tác phẩm thanh nhạc lớn mà bà đã thu âm trong giai đoạn đầu từ năm 1957 đến năm 1972.

Ludwig qua đời tại nhà riêng ở Klosterneuburg, Áo vào ngày 24/4/2021, thọ 93 tuổi. Tiếc thương về sự ra ra đi của một trong những giọng mezzo-soprano vĩ đại nhất mọi thời đại, các nhà hát lớn trên khắp thế giới đã dành cho bà những lời lẽ trân trọng nhất. Vienna State Opera tuyên bố: “Chính sự kết hợp vô cùng tuyệt vời giữa một giọng hát độc đáo và sự thông minh trong cách diễn giải đã khiến bà trở nên đặc biệt”. Còn La Scala thì đau buồn: “Với sự qua đời của Christa Ludwig, thế giới âm nhạc đã mất đi một nhân cách chói sáng và không thể bắt chước”.□

Tác giả