Đường Lâm ở Hà Tĩnh và giao lộ Đông Tây từ Biển Đông đến Mekong (Kỳ 1: Đường Lâm ở Hà Tĩnh)

Phần lớn giới nghiên cứu và xã hội đều cho rằng địa danh Đường Lâm gắn liền với sự kiện hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền nằm ở xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội ngày nay. Nhưng khi đối chiếu một cách hệ thống các nguồn sử liệu thời Đường, tôi cho rằng Đường Lâm là một huyện thuộc châu Phúc Lộc (hoặc châu Đường Lâm) tương đương với tỉnh Hà Tĩnh. Con đường từ núi Giăng Màn huyện Hương Sơn nay là một cửa ngõ quan trọng trong giao lộ Đông – Tây qua Hà Tĩnh Nghệ An thế kỷ X-XI, nối liền từ Biển Đông đến sông Mekong, nối liền Giao Châu với Chân Lạp, Khmer và thế giới Nam Á.


Phần lớn giới nghiên cứu và xã hội hiện nay đều cho rằng Đường Lâm gắn liền với sự kiện hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền nằm ở xã Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) ngày nay. Ảnh: Cổng làng Đường Lâm. Nguồn: Nhân dân.

Xác định Đường Lâm nằm ở đâu là vấn đề học thuật quan trọng bởi Đường Lâm là đất hai vua: Phùng Hưng và Ngô Quyền. Vào những năm 1960, Đào Duy Anh, Văn Tân cho rằng Đường Lâm nằm ở châu Phúc Lộc (nam Nghệ Tĩnh)1 và học giả người Pháp như E. Schafer cũng đặt Phúc Lộc2 trong tương quan với Phong Châu, Trường Châu, Lục Châu, Ái Châu, Diễn Châu của Giao Châu, nhưng đến ngày nay phần lớn học giới đều cho là ở xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội. Dựa trên việc kiểm chứng hệ thống sử liệu gốc, chúng tôi nghiêng theo giả thuyết của giáo sư Đào Duy Anh, và đã công bố bài khảo cứu vào năm 2011 trên Xưa và Nay3.

Sử liệu quan trọng để các sử gia Việt Nam xác nhận Đường Lâm ở Sơn Tây, Hà Nội ngày nay chính là đoạn văn trong Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt Toàn thư) ghi: “Tân Mùi [791],…, Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc) là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết.” (辛未,…, 夏四月,交州唐林人〈唐林在福祿縣〉馮興起兵圍府。政平以憂死))4. Nguyên ủy, Toàn thư ghi là “người Đường Lâm Giao Châu” (交州唐林人). Một soạn giả nào đó từ 1479 đến năm 1697 đã chú thêm rằng “Đường Lâm ở huyện Phúc Lộc”.

Phản biện lại Toàn thư, Đào Duy Anh đã sử dụng cụm 3 bộ sử thời Đường Tống gồm: Cựu Đường thư, Giã Đam ký, Thái Bình hoàn vũ ký để xác định Đường Lâm thời Đường, với sự kiện Phùng Hưng, là ở huyện Đường Lâm châu Phúc Lộc thuộc về phía Nam của tỉnh Hà Tĩnh ngày nay5. Năm 1966, Văn Tân đồng ý rằng có lẽ Toàn thư đã quy đổi lầm địa danh cổ thời Đường sang huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây. Với các cứ liệu Bắc sử, ông cho rằng “Ngô Quyền là người huyện Đường Lâm thuộc Hoan Châu, chứ không phải không phải là người huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây” và hàng loạt các thủ lĩnh khác trong thế kỷ VIII-X như Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Đình Nghệ,… đều từ Hoan Ái tiến ra An Nam đô hộ phủ. Đường Lâm ở Nghệ Tĩnh thì mới phù hợp với tình hình xã hội khi đó.

Cuộc tranh luận trong những năm 1960 trở nên khó ngã ngũ khi nhóm cho rằng Đường Lâm thuộc Sơn Tây đã đưa ra một sử liệu được cho là chắc chắn nhất – bia Phụng tự khắc năm 1390 tại đình xã Cam Lâm (tức Đường Lâm ngày xưa và xã Phùng Hưng ngày nay) ghi rõ bản xã vốn là Đường Lâm, có hai vị Phùng Hưng và Ngô Quyền, là một ấp hai vua, danh thơm bất hủ. Tấm bia này tuy lập sau khi Ngô Quyền chết 4 thế kỷ, nhưng lại có trước Đại Việt sử ký toàn thư đến hàng thế kỷ, nên nó tin cậy hơn các sách vở ghi chép vì không bị tam sao thất bản6.

Gần đây nhất, vào năm 2019, PGS.TS Nguyễn Minh Tường7 bảo vệ quan điểm cho rằng Đường Lâm ở Sơn Tây, ngoài luận điểm về Bia Phụng Tự (khắc lại vào đầu triều Nguyễn, nhưng khi khắc lại thì sử dụng địa danh hành chính của năm khắc đầu tiên) thì ông cho rằng 1/ Cựu Đường thư chỉ ghi “Đường Đỗ quận” không có “Đường Lâm quận”; 2/ Tên “Đường Lâm” tại Sơn Tây không phải có từ năm 1964 mà đã được chép từ sớm trong Việt Điện U Linh tập (1329), Lĩnh Nam chích quái (1370), Đại Nam nhất thống chí (1882).


Chữ “Đường Lâm” được viết 5 lần trong Tân Đường thư, Q.43 thượng, tr.23a, 23b.

Vấn đề bia Phụng tự thực ra không ảnh hưởng đến luận điểm mà giáo sư Đào Duy Anh đưa ra, vì ba sử liệu đời Đường mà ông khảo cứu đã ra đời từ trước thời điểm khắc bia, cách mốc chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là 453 năm8.

Khảo sát hệ thống các văn bản

 

Khi đọc sử liệu, chúng tôi luôn phải để ý đến hai khái niệm: “niên đại thành thư” (tạm gọi là N1), và “niên đại sự kiện diễn ra” (N2). Khi N1= N2, ta có sử liệu nguyên cấp, nghĩa là thời điểm tạo tác niên đại trùng với sự kiện, là bản thân sự kiện, hoặc một phần của sự kiện đó. N1 càng xa N2 thì khả năng khúc xạ hay phản ảnh sự kiện càng có thể sai lạc.

Ví dụ 1: Thông điển soạn năm 801 (do quan nhà Đường soạn) về sự kiện châu Phúc Lộc có huyện Đường Lâm thành lập năm 758. N1-N2 = (801-758) = 43 năm.

Ví dụ 2: Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng thành thư muộn nhất vào năm 1910, phản ảnh về sự kiện Phùng Hưng 791. Vậy quãng khúc xạ sử liệu sẽ là 1119 năm.

Trong khi đó thì sử liệu của Đại Việt, như Toàn thư, đã được biên tập trong suốt 300 – 400 năm nên có thể việc ghi lại địa danh cổ bị ảnh hưởng. Có thể ban đầu ghi là “Phúc Lộc Đường Lâm nhân”, nhưng người đời sau (năm 1479, sau gần 700 năm) không biết đến châu Phúc Lộc nên quy đổi thành “huyện Phúc Lộc”. Xét, huyện Phúc Lộc là địa danh thời Lê sơ, đến thời Tây Sơn đổi là Phú Lộc, đến năm 1802 lại cải thành Phúc Lộc, sau đổi thành Phúc Thọ9.

Việc chép “Đường Đỗ 唐杜” mà không phải “Đường Lâm 唐林” trong Cựu Đường thư có thể do nhầm lẫn. Thực ra, Đường Đỗ chỉ là một lỗi chính tả của văn bản. Vì ngay trong sách này, cùng miêu tả về châu Phúc Lộc, Cựu Đường thư cũng ghi chính xác là “Đường Lâm”10 (xem ảnh bên).

Khi xử lý văn bản gốc, sử liệu gốc, các văn hiến học cổ điển và nhà sử liệu học thường phải hiệu khám văn tự, so sánh dị bản, đối chiếu các truyền bản khác nhau để đính chính văn tự, phê phán sử liệu. Vì thế chúng tôi đã sử dụng một hệ thống sử liệu, đặt các sử liệu đó song song với nhau và tiến hành khảo dị. Trong số 11 lượt sử liệu sớm được biên soạn thời Đường- Tống – Minh thì 10 lượt ghi Đường Lâm (唐林), chỉ có 1 lượt ghi “Đường Đỗ” (唐杜). Như vậy có thể đính chính cho sử liệu, rằng Đường Đỗ chép nhầm từ Đường Lâm.

Ngoài việc khảo sát, đối chiếu văn bản một cách có tính hệ thống, thì vấn đề quan trọng tiếp theo là niên đại của nguồn sử liệu. Nghiên cứu về địa danh Đường Lâm của thời nhà Đường thì đương nhiên nguồn tư liệu được soạn thời Đường thời Tống là quan trọng nhất, vì nó được biên soạn gần với thời gian sự kiện diễn ra11. Chúng tôi đã khảo sát hệ thống sử liệu nguyên cấp có niên đại từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII và nhận thấy, các tư liệu sớm đều thống nhất ghi chép về sự tồn tại của huyện Đường Lâm/ châu Đường Lâm ở châu Phúc Lộc (tương đương với phía Nam của Hà Tĩnh), các tư liệu của Việt Nam từ thế kỷ XIV- XVII ghi trung tính (chỉ ghi “Đường Lâm” mà không quy đổi sang địa lý đương thời). Phải đến thời Nguyễn thì mới có chú thích quy đổi Đường Lâm thuộc Sơn Tây.


Bảng niên đại về sử liệu Đường Lâm12.

Các sử liệu thời Đường cũng mô tả tuyến đường giao thông nhằm phục vụ công tác quản lý và hoạt động quân sự, trong đó đoạn quan trọng: “Đạo Lĩnh Nam: Một đường từ phía Đông Hoan Châu đi hai ngày, đến huyện An Viễn của châu Đường Lâm, đi về phía Nam qua sông Cổ La, đi hai ngày đến sông Đàn Động của nước Hoàn Vương. Lại đi bốn ngày đến Chu Nhai. Lại đi qua Đan Bổ Trấn, đi hai ngày đến thành đô nước Hoàn Vương, thời Hán xưa gọi là đất quận Nhật Nam vậy”. (岭南道:一路、自驩州東,二日行至唐林州、安遠縣,南行經古羅江,二日行至環王國之檀洞江。又四日至硃崖,又經单补鎮,二日至環王國城,故漢日南郡地也。)13. Hoan Châu đời Đường là ở vào vị trí  Nam Nghệ An Bắc Hà Tĩnh, lấy Hồng Lĩnh- Lam Sơn làm trung tâm (thành phố Vinh ngày nay). Sông Cổ La tức là sông Kỳ La (sông Lạc Giang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Từ Kỳ La qua Vũng Áng mất một ngày, thêm ngày nữa đến được sông Đàn Động nước Hoàn Vương (Champa), thì suy ra sông Đàn Động chính là sông Gianh14.

Vậy châu Đường Lâm/ châu Phúc Lộc của nhà Đường bao gồm các huyện ở phía Nam Hà Tĩnh gồm: Hương Khê, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. 7000 bộ lạc Man Lão mà các sử liệu hay nói đến là ở vùng núi Hương Khê và các phần đất thuộc Lào. Còn huyện Đường Lâm thuộc châu Phúc Lộc nhà Đường nằm ở đâu?


Bản đồ số hóa Đường Lâm – Phúc Lộc Châu của Geography Institute of Academina Sinica, 2021. Trần Trọng Dương bổ chú địa danh. 
* Bản đồ này của GS Yan có một số sai sót về quy đổi địa danh, vị trí, tuyến đường đi từ Hoan Châu – Đường Lâm đến Chân Lạp. Xin xem bản đính chính ở kỳ sau. 


Đường Lâm – Phúc Lộc Châu trong “Bản đồ biên giới lãnh thổ các châu chính thời thịnh Đường”. 
Nguồn: Yan Geng Wang (2009, trang 975).

Theo tôi, trung tâm của nó nằm ở huyện Can Lộc và thành phố Hà Tĩnh nơi có dòng họ Ngô nổi tiếng và lâu đời trong lịch sử. Khác với ở Sơn Tây nay, không có họ Phùng họ Ngô nào ở đó (điền dã 2011). Từ thị trấn Nghèn xuôi sông Nghèn ra đến sông Hạ Vàng (cửa biển Nam Giới- chính là nơi Ngô Nhật Khánh lên thuyền vào Chiêm Thành cầu viện binh khoảng trước năm 979).

Như thế, việc xác định được vị trí của Đường Lâm và châu Phúc Lộc có một vai trò rất quan trọng trong việc tái nhận thức lịch sử thế kỷ VI-X.□

(Kỳ 2: Giao lộ Đông Tây từ Biển Đông đến Mekong)

Chú thích

1 Đào Duy Anh, trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1964.

Văn Tân, Vài sai lầm về tài liệu của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Nghiên cứu Lịch sử, số 93, 12/1966.

2 Thực ra, việc Đường Lâm/ Phúc Lộc tồn tại như một địa danh hành chính thời Đường không phải là chuyện mới đối với học giới quốc tế. H. Maspéro (1910, 1918) là người sử dụng Thái Bình hoàn vũ kí để viết về Đường Lâm- châu Phúc Lộc. Henri Maspéro, “Le Protectorat d’Annam sous les Tang. Essai de géographie historique”, BEFEO, 1910, p.550; Henri Maspéro, “La Frontière de l’Annam et du Cambodge du VIIIe au XIVe siècle”, BEFEO 18, 3 (1918), p.447.

Schafer, Edward H., 1967, The Vermilion Bird- T’ang Images of the South, University of California Press, Berkeley and Los Angeles. p.19.

3 Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan. Đường Lâm Sơn Tây: một chặng huyền sử thế kỷ XX. TC Xưa và Nay, số 391, tháng 11/2011. và Trần Ngọc Vương, Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan, Đường Lâm là Đường Lâm nào? Tạp chí Xưa và Nay, số 400  (3/ 2012) và số 401, tháng 4/ 2012.

4 Đại Việt sử ký toàn thư, Nội Các quan bản, khắc in 1697, bản dịch, Nxb KHXH. Hà Nội, 1998. trang 191.

5 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1964, trang 79. 陶維英,<越南历代疆域-越南历史地理研究>,钟民岩譯,岳胜校,商务印书館,北京,1973, trang. 132-133.

6 Vũ Văn Tỉnh, “Ngô Quyền là người Hà Tĩnh hay người Sơn Tây?” Nghiên cứu Lịch sử, số 97, 4/1967, trang 63.

7 Nguyễn Minh Tường, “Trở lại vấn đề quê gốc Ngô Quyền” đăng trên Tạp chí Xưa và Nay (số 5, trang 13- 22).

8 Trần Trọng Dương (2019, trang 55-59) giám định văn bản học, cho bia này là bia thời Nguyễn. Việc giám định văn bản này là kế thừa từ luận điểm của [Vũ Duy Mền, “Tấm bia Quang Thái (1390) đời Trần tại đình Phùng Hưng, làng Cam Lâm, xã Đường Lâm”, Thông báo Hán Nôm năm 2004, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005, tr.339 – 342.] Ý kiến này sau đó được Phạm Lê Huy phản biện, ông cho rằng huyện Phúc Lộc đã có từ thời Lê sơ và văn bia có thể được khắc từ 1466- 1473. Như vậy, bia được khắc lại chứ không phải bia ngụy tạo. [xem Phạm Lê Huy, “Hệ thống tư liệu về khởi nghĩa Phùng Hưng”, Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2016.]

9 Geng Hui Ling 耿慧玲, 2004,《越南史論——金石資料之歷史文化比較》台北:新文豐出版公司trang 202.

10 Quý vị có thể kiểm tra ảnh chụp nguyên bản Cựu Đường thư (quyển 41, trang 4b, dòng 1 chữ lớn thứ 5-6) được in trong sách Việt Nam thế kỷ X- những mảnh vỡ lịch sử (2019, trang 378). Hoặc Âu Dương Tu 歐陽錦 và Tống Kì , 1060, TâĐường thư <劤鉗書>, 뒀굶:굇芥셰祐枷愷契굶, 소駱寮編, :땋匡, 1979.

11 Những phần viết về Địa lý chí của Đường thư là quan trọng nhất, vì đó là sự ghi chép có chủ đích, thể hiện quyền lợi (dân số, thuế má,…) và quyền lực chính trị của người chép sử.

12 Chúng tôi đã chú nguồn cho từng nguồn sử liệu, gõ máy và ảnh ấn trang nguyên gốc trong bản công bố năm 2011, và tái bản 2019, nên không dẫn lại ở đây. Xin tham khảo [Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương. 2011, “Đường Lâm là Đường Lâm nào (Tìm về quê hương Đại Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu)”. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Huế. 02-2011.Tr.115-137.; Trần Trọng Dương, 2019, Việt Nam thế kỷ X  – Những mảnh vỡ lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, trang 72 đến 82, và ảnh ấn nguyên văn sử liệu từ trang 367 đến 378]. Trên Xưa và Nay không có ảnh nguyên bản in kèm.

13 Âu Dương Tu 歐陽修,Tống Kì 宋祁, 1060, TâĐường thư <新唐書>,Quyển 43 thượng, trang 23.

14 Về phương hướng, các tài liệu địa chí thời Đường miêu tả theo bản đồ nằm ngang so với ngày nay, ví dụ có thể lấy Đại Nam nhất thống toàn đtriều Nguyễn để hình dung. Cách vẽ bản đồ là lấy biển Đông ở phía dưới, gọi đó là hướng nam, ngược với hướng Nam là Bắc (dãy Trường Sơn hoặc Hoàng Liên Sơn là hướng bắc, sông Hồng từ phía bắc chảy xuống). Từ Giao Châu đi về Hoan- Ái và Chiêm Thành thì là đi về hướng Tây, nên Lê Thánh Tông mới có cuốn Chinh Tây kỷ hành (là ghi chép về trận đánh Chiêm Thành năm 1470-1471) ông còn gọi biển Chiêm Thành là Tây Hải (biển tây), từ Giao Châu đi sang Trung Quốc thì là hướng Đông. Cho nên ở đây, văn tả từ Hoan Châu đi về hướng tây 2 ngày thì đến huyện Nhu Viễn của châu Phúc Lộc, nghĩa là đi về hướng Nam theo phương vị ngày nay. Văn liệu: “Giao Châu Đô Hộ chế ngự các man. Biển của Giao Châu nằm ở phía Nam của đất nước, đại để  Giao Châu từ phía nam cho đến Tây Nam, [các vùng đất] đều nằm các bãi cù lao trên biển lớn”. (交州 都護制諸蠻。其海南諸國,大抵在交州 南及西南,居大海中洲上) [Lưu Hú 劉 昫, 945, Cựu Đường thư <舊唐書>, 底本:清懼盈齋刻本,楊家駱主編, 台北:鼎文,1979, trang 1749].

Tác giả