Đọc lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh

Nam Phong (1917-1934) là một trong những tạp chí có công rất lớn trong việc cổ động cho văn học quốc ngữ, cho nền quốc học Việt Nam. Đặc biệt cho việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam trên cơ sở kết hợp, dung hòa hai nền văn chương, học thuật, tư tưởng Đông - Tây. Các biên tập viên giữ các chuyên mục của tạp chí đều là những cây bút vững vàng, sắc sảo, nhạy bén với những vấn đề văn hóa, trong đó phải kể đến ông chủ bút là Phạm Quỳnh.

Khi đất nước mất về tay thực dân Pháp, việc giành lại chủ quyền lãnh thổ tạm thời bị thất bại, thì việc đặt ra hồn nước được giới sĩ phu đặc biệt quan tâm. Các nhà nho thập niên đầu thế kỷ XX đều có những bài thơ thức tỉnh hồn nước, tiêu biểu là Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc. Tuy nhiên, chữ hồn của các nhà nho này chỉ cái gì đó vô hình, thiêng liêng, có khả năng tồn tại lâu dài đối lập với thể xác. Bởi vậy, khái niệm hồn nước vẫn chưa được giải thích rõ như là bản sắc văn hóa dân tộc.
Phạm Quỳnh, với tư cách là một người làm học thuật, trên Nam Phong (số 164, 7 – 1931), đã viết bài Bàn về tinh thần lập quốc đề cập đến vấn đề này. Ông dẫn ý của văn hào Pháp Ernest Renan trả lời câu hỏi “Thế nào là một nước?” mà cho rằng: “Cái nguyên tố dựng nên một nước không chỉ ở thổ địa, cư dân mà thôi, cốt là ở cái ý nguyện chung của người ta muốn cùng nhau sum vầy sinh hoạt, cùng nhau cộng thích đồng hưu, nhìn về trước thì cùng nhau chung một cuộc lịch sử để tạo gian nan, ngó về sau thì cùng nhau chung một lòng hy vọng vẻ vang rực rỡ, nói tóm lại là ở cái mối vô hình nó ràng buộc người ta lại, làm thành cái đoàn thể thiên nhiên mà bền chặt, trăm nghìn vạn mớ người ta cùng nhau như một người, lâm thời có thể răm rắp đứng lên mà đối với mọi sự ngoại hoạn. Cái vô hình, tức là cái tinh thần lập quốc, tức gọi là quốc hồn”.

Thức nhận được thảm họa của cách học cũ (dù có thể mang lốt mới), Phạm Quỳnh đã đặt một cơ sở khoa học cho cách học mới để từ đó dựng xây một nền quốc học chân chính, một nền văn hóa mới. Đó là sự tổng hợp văn hóa Đông Tây.

Như vậy, theo tác giả, quốc hồn chính là văn hóa: văn hóa cổ truyền là phần hương hỏa cha ông mà chúng ta phải gìn giữ; còn văn hóa hiện đại là cái chúng ta phải xây dựng, bồi đắp. Nhưng, cụ thể văn hóa Việt Nam là gì? Theo nghĩa căn cốt nhất, đó là quốc học. Nhưng trước khi đặt ra vấn đề quốc học Việt Nam như thế nào thì phải xem (cho đến thời điểm bấy giờ) chúng ta đã có quốc học chưa? Nếu chưa hoặc đã có thì làm thế nào để xây dựng hoặc tài bồi?
Vấn đề này đã làm nổ một cuộc tranh luận. Có người cho là có, như Sở Cuồng Lê Dư chẳng hạn. Thậm chí ông này còn lập ra tủ sách “Quốc học tùng thư”. Nhưng cũng có người cho là không, như Phan Khôi. Thực ra, chuyện có không không có cũng khó phân định, vì mỗi người hiểu quốc học một cách khác nhau. Bởi thế, khi vào cuộc, Phạm Quỳnh đã phải đưa ra định nghĩa về quốc học. Theo ông, nó “gồm những phong trào học thuật trong một nước, có đặc sắc với nước khác, và có kết tinh thành những sự nghiệp trước tác, lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy”. Sau đó, tuy không trả lời trực tiếp, nhưng ông lại đưa ra một nhận xét khá xác đáng và không kém phần hóm hỉnh: “Sở dĩ phải khơi ra câu hỏi đó, đủ biết rằng nếu nước ta đã từng có một nền quốc học, thì cái quốc học ấy cũng nhỏ nhen, eo hẹp, không có gì đủ đem khoe với thiên hạ”.
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, Phạm Quỳnh cho rằng ấy là do “cái học của ta”, cụ thể hơn cách học. Một nước nhỏ lại đứng cạnh một nền văn minh lớn thì dù muốn dù không việc học là tất yếu. Nhưng hơn hai mươi thế kỷ học Tàu mà nền quốc học của ta chưa có “môn hộ” (tức trường phái học thuật) riêng, học vấn thì chưa thoát “vòng giáo khoa” (tức tri thức học đường, kiến thức phổ thông) để lên “cõi học thuật”, con người thì chưa thoát nổi “tư cách học trò”, “tâm lý học trò”. Kìa như Nhật Bản, ông so sánh, người ta cũng học Tàu nhưng lại có tư tưởng học thuật riêng, bởi thế có quốc học. Có nhiều nguyên nhân, ông giải thích, nhưng có lẽ chủ yếu là do người Nhật không học theo chế độ khoa cử Tàu, còn ta “học Tàu lại chỉ thuần một phương diện cử nghiệp, là cái học rất thô thiển, không có giá trị gì về nghĩa lý tinh thần cả, mài miệt về một đường đó trong mấy mươi đời, thành ra cái óc bị tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ nữa”.
Dĩ nhiên, nỗi đau này không phải lỗi của riêng ai. Phạm Quỳnh đã phân tích các tình thế địa lý, lịch sử và chính trị giữa ta (khác với Nhật) và Tàu đã dẫn đến cách học ấy. Điều này, một mặt mở ra một khả năng có thể thay đổi cách học một khi tình thế đổi thay, mặt khác cho thấy một di căn của nó đến cả thời đại Tây học. Nội dung học thì mới, nhưng cách học vẫn cũ như cũ. Bởi vậy, nói như Phan Chu Trinh xưa, hủ Nho thì nay hủ Tây. Mà với tư cách học trò, nhất là trò hủ, thì vẫn thường xảy ra “cái tệ con chiên theo đạo người thường hay ngoan đạo hơn chính người nước phát hành ra đạo ấy”. Hơn nữa, mọi học thật (thuật) một khi đã mang tính cách tôn giáo (dù dưới hình thức nào) thì cũng dễ thành học giả.
Thức nhận được thảm họa của cách học cũ (dù có thể mang lốt mới), Phạm Quỳnh đã đặt một cơ sở khoa học cho cách học mới để từ đó dựng xây một nền quốc học chân chính, một nền văn hóa mới. Đó là sự tổng hợp văn hóa Đông Tây. Thực ra, định đề này không mới, nhưng cách đặt và phân tích vấn đề thì khá thuyết phục, nhất là với tư duy bấy giờ. Thoạt tiên, Phạm Quỳnh phân biệt văn hóa Đông Tây ở hai đặc trưng lớn của nó là đạo học và khoa học. “Khoa học ở đây là nói về cái phương pháp, cái tinh thần của sự học của người Thái Tây, khởi xướng ra khoa học là lối học phân ra khoa loại, đặt thành phương pháp, để cầu lấy kết quả đích xác, tìm lấy chân lý sự vật. Khoa học là phép học chỉ châu tuần trong cõi thực tế, không mơ tưởng những sự huyền vi. Khoa học là sự học lấy lý luận làm tiên phong, lấy thực nghiệm làm hậu kính, lấy sự thật hiển nhiên làm căn cứ, lấy lẽ phải tất nhiên làm mục đích”. Lối học khoa học này thật mới mẻ và cũng thật khác xa với đạo học. Một đằng thì học cho đời (ứng dụng), khách quan, một đằng thì học cho mình (thụ dụng), chủ quan; một đằng thì chuộng mới, một đằng thì nệ cũ; một đằng thì càng học càng giàu có, một đằng càng học thì càng quy giản, rút lại chỉ còn mấy điều cốt yếu đủ để tự mình giác ngộ mình…
 

Nhưng để xây dựng một nền quốc học, để thoát khỏi cảnh suốt đời làm học trò người, dù là trò giỏi, thì phải xây dựng cho được một nền quốc văn. “Nước ta sở dĩ không có một nền quốc học chân chính, phần nhiều là bởi không có một nền quốc văn xứng đáng”. Nhưng quốc văn là gì? Theo Phạm Quỳnh, đó là ngôn ngữ dân tộc (langue nationale), mà sự phát triển của nó được biểu hiện ở văn chương và học thuật. Văn chương thì chúng ta có, nhưng học thuật thì chưa. Để làm rõ kết luận này, trong bài Quốc học với quốc văn (1919), Phạm Quỳnh chia văn chương thành văn chơi và văn có ích. Trước đây, cha ông ta mới chỉ có văn chơi bằng tiếng Việt, còn văn có ích thì đều làm bằng chữ Hán cả. Bởi thế mà tiếng ta chỉ mới phát triển phần “hình nhi hạ”, tức những từ cụ thể, giàu hình ảnh để biểu đạt tình cảm, mà không phát triển phần “hình nhi thượng” để có thể có tư duy trừu tượng, lôgíc. Ở ta, do đó, thơ ca dồi dào đến mức lạm phát, còn văn xuôi, nhất là văn luận lý, thì không có. Tiếng Việt như con chim mới chỉ bay bằng một cánh.
Đó là lỗi của việc học và dùng Hán văn (sau này là Pháp văn) làm ngôn ngữ chính thức. Học một tử ngữ là học một tử văn (culture morte). Mà, “xưa nay ở Đông phương cũng vậy, ở Tây phương cũng vậy, nước nào còn tôn sùng một cái văn hóa cổ thì không thể nào có quốc văn, có quốc học được”. Hơn nữa, quốc học là bản thể (mục đích), quốc văn là hình chất (phương tiện), nên chỉ có sự thống nhất, sự đồng bộ giữa thể và chất, cứu cánh và phương tiện thì văn hóa dân tộc mới phát triển. Dùng Hán văn hoặc Pháp văn để dựng xây quốc học thì hình chất sẽ làm hại bản thể. Bởi, ngôn ngữ không chỉ là vỏ của tư duy, mà xét cho cùng chính là tư duy. Vì thế, suy nghĩ bằng ngôn ngữ ngoại quốc thì hoặc là anh chỉ lặp lại những tư tưởng có sẵn trong ngôn ngữ đó, hoặc là anh sẽ tư duy y như người ngoại quốc. Trường hợp đầu anh sẽ trở thành một ông đồ chính hiệu (chữ đồ theo nguyên nghĩa là tô lại, lặp lại). Có thể anh cũng trở thành một người học rộng biết nhiều (bác học quảng văn), nhưng đó chỉ là cái học ký ức, chứ không phải là học tri thức; nó không làm đầu óc ta phát triển, lòng ta say mê kiến thức, ngoài việc nhớ dai, nhất là nhớ máy móc. Trường hợp sau là của những tài năng. Học ngoại ngữ mà tư duy như người bản ngữ là tài năng. Nhất là những người sáng tác được bằng ngoại ngữ. Nhưng với họ cũng sẽ xảy ra một tình trạng: một là dù giỏi đến đâu cũng không bằng người bản ngữ giỏi (thơ chữ Hán Cao Bá Quát không thể hay hơn thơ Đỗ Phủ, tiểu thuyết tiếng Pháp của Phạm Văn Ký không thể hay hơn tiểu thuyết Camus), hai là một khi đã giỏi bằng họ thì sẽ không còn là mình nữa, dẫu rằng các dấu hiệu nhân chủng vẫn vậy (trường hợp các nhà văn gốc Việt thế hệ F2, F3 ở nước ngoài). Đây là những trường hợp chảy máu tài năng đáng tiếc nhất. Bởi lẽ, họ dần dần trở nên xa lạ với đồng bào, với nền văn hóa gốc của họ. Vì thế, phải phát triển ngôn ngữ dân tộc, cụ thể là xây dựng một nền văn xuôi, để chắp thêm một cánh bay nữa cho nền quốc học.
Với một sự phân tích rạch ròi, sâu sắc, với một cái nhìn nhiều dự phóng tương lai, Phạm Quỳnh đã là một trong những người đầu tiên cổ vũ và xây dựng nền quốc ngữ. Nam Phong dần dần chỉ còn là tạp chí quốc ngữ. Chữ quốc ngữ với sự giản tiện của nó đã làm báo chí phát triển, phổ cập hóa rất nhanh tư tưởng và tri thức. Rõ ràng đó là một công cụ hữu hiệu. Tuy nhiên, Phạm Quỳnh vẫn chủ trương phải học chữ Hán, phải tận dụng những chữ Hán trong tiếng Việt, nhất là các thuật ngữ, để làm phong phú tiếng Việt.
Như vậy, tư tưởng chính của Phạm Quỳnh là muốn xây dựng một nền văn hóa Việt Nam không giống Tàu cũng không giống Tây, tuy có tiếp thu tinh hoa cả hai. Và, nếu nhìn đường dây tư tưởng của ông: quốc học -> quốc văn -> quốc ngữ, thì sẽ thấy ông không lấy quá khứ, mà tương lai làm chuẩn. Bởi vậy, nó mới chỉ là định hướng, một định hướng chiến lược, mà phải biết bao công sức nữa thì mới định hình. Phạm Quỳnh và các đồng chí của ông trong Nam Phong đã đi đầu trong việc xây đắp hình hài này.
Là người dung hòa văn hóa Đông Tây, nhưng căn cốt Phạm Quỳnh, có lẽ, vẫn là một nhà Nho, một ông đồ Tây. Nên, cũng như một nhà Nho, ông muốn hành đạo đến cùng. Điều đó hẳn đã gây cho ông một ảo tưởng là nếu làm quan (Thượng thư bộ Học, rồi bộ Lại) thì sẽ dễ dàng đưa vào cuộc sống những tư tưởng tâm huyết của ông về việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam. Người ta cũng tiếc là ông vì việc làm quan này đã bỏ tạp chí Nam Phong để nó phải chết vào năm 1934. Nhưng thực ra, vai trò của Phạm Quỳnh và tạp chí do ông làm chủ bút với tư tưởng dung hòa văn hóa Đông Tây đã đến vãn hồi. Xã hội Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, với một tầng lớp tri thức Tây học, muốn đoạn tuyệt với quá khứ, đưa xã hội Việt Nam nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, theo con đường hiện đại hóa kiểu phương Tây. Họ không làm khảo cứu nữa, mà bằng những sáng tác của mình, khẳng định điều đó.

Đỗ Lai Thúy

Tác giả