Không gian của tiếp nhận

Sławomir Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Và ở mỗi thời đoạn, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ, tương ứng với sự thay đổi trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người đọc.

1. Sławomir Mrożek (1930) được biết đến với tư cách họa sĩ biếm họa trước khi trở thành kịch tác gia, nhà văn trào phúng Ba Lan nổi tiếng thế giới. Mrożek viết khoảng 40 vở kịch, đặc biệt với Tango (1964), ông đã tạo dựng được tên tuổi của mình trong dòng mạch những sáng tạo văn học phi lý vào nửa sau thế kỷ XX. Mrożek cũng thành công với truyện ngắn và tiểu luận, nơi thể hiện nhiều quan điểm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. 

Ở Việt Nam, Mrożek lại được biết đến chủ yếu với tư cách nhà văn viết truyện ngắn trào phúng, ngay từ rất sớm, và cho đến tận bây giờ. Năm 1969, ở Sài Gòn, dịch giả Diễm Châu đã công bố bản dịch Con voi (Słoń, 1957) tại Nhà xuất bản Trình Bầy, trước cả bản dịch sang tiếng Anh ba năm: The Elephant (Greenwood Press, 1972). Năm 1990, một bản dịch Con voi từ nguyên bản tiếng Ba Lan của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng được công bố tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Gần đây nhất, tháng 5/2013, tập truyện Con voi [Tuyển tập 85 truyện ngắn Mrożek] của dịch giả Lê Bá Thự được Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, trên cơ sở phát triển từ tập 50 truyện ngắn Sławomir Mrożek (Nhà xuất bản Văn học, 2002).

2. Điều gì đã khiến Mrożek du hành tới Việt Nam chỉ mươi mười lăm năm sau khi ông khẳng định được tên tuổi của mình ở Ba Lan và châu Âu? Và tại sao lại là truyện ngắn chứ không phải kịch? Có lẽ sự thống nhất trong phong cách trào phúng ở tất cả các thể loại mà Mrożek sáng tạo, với tính chất humour đặc trưng, khả năng sử dụng ngôn ngữ tinh tế và kỹ thuật giễu nhại điêu luyện, tất cả hợp thành một phúng dụ về sự phi lý của cõi đời, kiếp người, mà xã hội Ba Lan chỉ là một trường hợp, đã đưa tác phẩm của ông vào tầm quan sát của dịch giả Diễm Châu. Thêm nữa, bởi với một dịch giả tài năng không chỉ nằm lòng văn học phi lý, thì một Mrożek của Tango đến từ Ba Lan xã hội chủ nghĩa xa xôi (hay từ một nhà văn Ba Lan đang lưu vong tại Pháp), có thể là một dấu chỉ quan trọng cho việc truyền dẫn tới bạn đọc Việt Nam.

Sau Diễm Châu hai mươi năm, bản dịch của Nguyễn Hữu Dũng hình như lại xuất hiện trong một khung cảnh văn hóa khác. Phẩm tính phi lý không được nhấn mạnh mà thay thế vào đó là phẩm tính trào phúng: tập sách của Nhà xuất bản Tác phẩm mới có thêm phụ đề “Tập truyện châm biếm”. Sự chia sẻ giữa hai dịch giả, có lẽ đều ở khía cạnh giá trị tư tưởng và tài năng nghệ thuật độc đáo của Mrożek. Với riêng Nguyễn Hữu Dũng, đấy còn là ý hướng giới thiệu về nền văn học Ba Lan, mà trước Mrożek, là những Henryk Sienkiewicz, Tadeusz Dolega Mostowicz, Helena Mniszek,… Ở khía cạnh thứ hai này, Nguyễn Hữu Dũng chia sẻ với dịch giả đến sau là Lê Bá Thự, khi cả hai ông đều là những dịch giả dịch văn học Ba Lan từ nguyên ngữ. Nhưng giữa bối cảnh văn hóa xuất hiện dịch phẩm Mrożek của Nguyễn Hữu Dũng và Lê Bá Thự, dẫu chỉ cách nhau mươi năm, cũng có những thay đổi đáng chú ý. Tập 50 truyện ngắn Sławomir Mrożek của Nhà xuất bản Văn học cũng có kèm theo phụ đề: “Truyện ngắn, truyện cực ngắn chọn lọc”, trước khi trở về với phụ đề quen thuộc “Tập truyện ngắn” trong lần xuất bản bổ sung của Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Vậy là, cùng một đối tượng, hiện diện ở Việt Nam trong hơn 40 năm, trong những không gian đọc khác nhau, nhìn nhận về Mrożek đã có những chuyển đổi, theo cùng nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn học. Đầu tiên, ở thời kỳ Diễm Châu chuyển dịch, đó đơn thuần chỉ là “truyện” trong sự biện biệt với thơ và kịch. Qua thời Nguyễn Hữu Dũng, thể loại được nhấn mạnh ở khía cạnh nội dung, khi được thêm định ngữ để trở thành “truyện châm biếm”. Đến thời Lê Bá Thự, định ngữ này lại được thay thế để thành “truyện rất ngắn”, một thể loại mới được biết đến ở Việt Nam, như một cộng hưởng để theo đó, hy vọng viết ngắn có thể trở thành thể loại ưu trội trong văn học Việt Nam thế kỷ mới.

3. Truyện của Mrożek hấp dẫn người đọc trước nhất ở tính cách trào phúng. Rất ít khi đó là tiếng cười hài hước, mà chủ yếu là tiếng cười mỉa mai, châm biếm. Thậm chí, hình thức “phản ngữ” để cất tiếng trào phúng cũng phần nào lép vế hơn so với các hình thức sử dụng ngôn ngữ giễu nhại kết hợp với hình tượng nghệ thuật kệch cỡm, lố bịch để tạo hiệu ứng đả kích sâu cay. Tính cách trào phúng, do đó, giải thích cho việc dễ dàng đính thêm phụ đề “Truyện châm biếm” vào bản dịch Con voi, khi nó được hiểu như là một dòng mạch phát triển khá mạnh mẽ trong văn học Việt Nam truyền thống. Có thể đọc được hàng loạt các truyện ngắn của Mrożek từ quan điểm này. Ở đấy, nhận thức sâu sắc cõi đời phi lý, sự giả dối của lòng người, sự lường gạt của quyền lực, Mrożek cất tiếng cười châm biếm, lật tẩy diện mạo khả ố của kẻ thống trị, đồng thời cất tiếng cười mỉa mai cả nạn nhân của nó, những người chấp nhận và/hoặc chịu đựng thỏa hiệp với đời sống tha hóa ấy.

Tiếng cười trong truyện Mrożek, vì vậy, dù hài hước hay mỉa mai hay châm biếm, đều kéo theo ở phía bên kia của nó tiếng khóc. Đọc truyện, theo đó, người đọc đầu tiên được trải nghiệm tiếng cười. Nó được bật lên bởi sự lố bịch của nhân vật, sự hài hước của các chi tiết thông minh, sự bất ngờ của các sắp đặt khéo léo. Nhưng khi tiếng cười vừa ngưng lại, thì nỗi buồn nhen nhóm rồi trào dâng. Nó khiến người đọc phải suy nghĩ, đau xót và thấm thía.

4. Bên cạnh tiếng cười trào phúng, có một bộ phận đáng kể những truyện của Mrożek được viết theo một bút pháp khác. Nó có trào phúng nhưng không hẳn/chỉ là trào phúng, thậm chí độc lập với chức năng phúng gián. Có thể nhìn nhận những tác phẩm này như là những viết ngắn, còn được định danh bằng các tên gọi khác như truyện cực ngắn (nếu hình dung đấy là diễn ngôn truyện kể), là tiểu luận (nếu hình dung đấy là các diễn ngôn nghị luận). Gọi là viết ngắn để chủ yếu để nhấn mạnh đến tính chất giới hạn của tự sự, với sự gọn nhẹ của số lượng ngôn từ và khả năng bao quát ý tưởng, trong việc bao gộp tính chất kể việc và nghị sự, mà sự phân tách nhiều khi là bất khả. Với Mrożek, đặc trưng viết ngắn đọng lại ở cái nhìn mang tính phúng dụ về đời sống, về nghệ thuật, làm thành những tác phẩm nhẹ-nhõm-sâu-cay khi cất tiếng cười giữa cuộc đời.

Mrożek là người bắt bệnh cho xã hội Ba Lan hiện đại, ông tin vào sự phản biện, vào sự độc lập trong suy nghĩ. Ông muốn người ta cất tiếng nói từ sự độc lập tự chủ ấy, dù đơn thuần có khi chỉ là một phát hiện giản dị mà không đơn giản: “Tin tức thì bảo đó là ‘vụ tự vẫn’, còn tôi thì tôi bảo, đó chẳng qua là một vụ tai nạn. Trong cái nghề tự vẫn, đôi khi cũng xảy ra tai nạn chết người.” Đó là lời kết của truyện Nghề tự vẫn. Một lời kết xuất sắc, cho nhiều hơn một kết thúc truyện.

5. Có thể nói, Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Và ở mỗi thời đoạn, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ. Ngoài tính năng sản của tác phẩm Mrożek, sự thay đổi trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Việt Nam cũng làm cho một số vấn đề trong tác phẩm của ông được nổi bật lên ở mặt này hay mặt khác, khi là tính chất cách mạng xã hội, khi là hiệu quả nghệ thuật tự sự, khi là phương thức tiếp cận nghệ thuật về con người và xã hội. Để ngay cả khi, nhiều ít những kinh nghiệm nghệ thuật của Mrożek có thể bị bỏ lỡ hay đã bị vượt qua, thì với nhiều khúc quành trong đời sống dịch thuật văn học Việt Nam, ông vẫn hiện diện như một chỉ dấu lịch sử để văn học Việt Nam soi rọi vào chính nó.

Tác giả