Tự Lực văn đoàn – một “nhóm lợi ích” trong đời sống văn nghệ*

Khi viết về Tự Lực văn đoàn (TLVĐ), những năm gần đây, số lớn ý kiến thường chỉ thiên về kể công lao, đóng góp của TLVĐ; ít thấy ai đặt hoạt động TLVĐ vào đời sống văn nghệ đương thời để mô tả, nhận định các hoạt động cụ thể của nó; cũng ít thấy ai chú ý tìm hiểu xem TLVĐ được cảm nhận ra sao trong tầm nhìn của những người đương thời, nhất là những đồng nghiệp viết văn làm báo, hoặc công chúng văn nghệ thời ấy.

Thiết nghĩ, đối với TLVĐ, hội đoàn sáng tác có tổ chức chặt chẽ đầu tiên ở Việt Nam thời hiện đại, nếu xem xét hoạt động của nó từ tầm nhìn gần, không lý tưởng hóa, người ta sẽ thấy TLVĐ ra đời và hoạt động như một nhóm lợi ích.

TLVĐ gồm bảy thành viên: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thế Lữ (Nguyễn Đình Lễ), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu); các thành viên này cùng với nhiều người khác trong gia đình Nguyễn Tường và một số người thân khác của các thành viên, hoạt động trên hai tờ tuần báo Phong Hóa (1932-1936), Ngày Nay (1935; 1936-1940), và nhà xuất bản Đời Nay (1934-1945).

So với nhiều nhóm nhà văn khác, khi tụ khi tán, suốt những năm 1930-1945, thì cơ sở ấn loát kể trên của TLVĐ tỏ ra vững vàng hơn hẳn. Tuy nhiên, các cơ sở báo chí xuất bản này không hoạt động như một cơ sở kinh doanh ấn loát bất kỳ nào đó.

Người ta biết, chẳng hạn, nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình Long hoạt động xuất bản sách báo như một tổ chức sản xuất kinh doanh ấn phẩm nhưng không tính đến, thậm chí không chấp nhận sự tập hợp các nhà văn tại đây theo các dấu hiệu đồng thuận về những tư tưởng hay thị hiếu nghệ thuật nhất định. Do vậy, giữa ông chủ Tân Dân và các nhà văn cộng tác với các ấn phẩm của nhà Tân Dân chỉ có các quan hệ lao động (thuê người làm và làm thuê) hoặc thương mại (mua bản thảo, bán bản thảo) mà trong đó sự xung đột lợi ích là khá thường trực (dù không lớn, chủ yếu chỉ xoay quanh vấn đề định mức hoặc cách tính nhuận bút), sự cộng đồng lợi ích tuy vẫn có nhưng là tương đối nhỏ; còn lại, hầu như không có gì gắn bó họ với nhau thành một nhóm lợi ích.

Trong khi đó, các tờ Phong Hóa, Ngày Nay và nhà xuất bản Đời Nay ưu tiên hoạt động như công cụ, như phương tiện của nhóm tác gia trong TLVĐ. Nó ưu tiên đăng tải tác phẩm của các thành viên trong nhóm, sau đó mới dành chỗ đăng một số tác phẩm của các cộng tác viên, tức là những người ngoài nhóm ấy, chỉ có liên hệ hoặc thân hoặc sơ với hầu hết hoặc một vài thành viên của nhóm. Ngay sau khi sắp hoàn tất việc đăng báo, các tác phẩm của các thành viên sẽ được chuyển sang khâu in thành sách. Chính nhờ được đặt vào quy trình liên tục này về ấn loát nên các tác phẩm của các nhà văn trong TLVĐ đều được công bố trọn vẹn, hầu như không tác phẩm nào bị dở dang, mất mát (trừ những tác phẩm mới chỉ đăng trên Ngày Nay, kỷ nguyên mới, 1945, ví dụ truyện dài Xiềng Xích của Khái Hưng). Trong sự tiếp cận của các giới sự tầm nghiên cứu hậu thế, đây là một lợi thế khá lớn của các nhà văn trong TLVĐ so với phần đông tác giả đương thời, tác phẩm thường đăng tải trên nhiều tờ báo khác nhau, thường bị gián đoạn do các báo bị đóng cửa hoặc có thay đổi thành phần tòa soạn, rốt cuộc là số tác phẩm bị thất lạc, mất mát không ít.
 
Cùng với việc đảm bảo tốt khâu công bố tác phẩm cho các nhà văn trong nhóm, TLVĐ còn chú trọng tạo dư luận, gây tiếng vang cho các nhà văn thành viên, xây dựng uy tín, giá trị cho sự nghiệp văn chương của họ. Đây là một chiến lược nhiều mặt, được hai tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay và các thành viên TLVĐ ráo riết thực hiện theo nhiều cách, nhất là trong dăm bảy năm đầu từ khi nhóm này xuất hiện.

Chẳng hạn, người ta có thể thấy, từ khi ra đời (1933) đến khoảng 1938, TLVĐ có chiến lược hạ uy tín những tác gia khác, ngoài văn phái mình.

Trước hết, việc này nhắm vào những người già, những tác gia thuộc thế hệ trước.

Vì sao một trong những thói tật khá phổ biến ở xã hội đương thời là tật nghiện rượu, lại không được các biếm họa trên Phong Hóa gán cho hai gã Lý Toét, Xã Xệ hư cấu, như đối với nhiều thói tật khác, mà lại gán cho một Tản Đà cụ thể? Điều này, vào năm 1937, Vũ Trọng Phụng có lời giải:

“Xưa kia, muốn cho Thế Lữ nổi tiếng về thơ mới, Tự Lực văn đoàn đã phải dùng đến cách làm cho thiên hạ tưởng Nguyễn Khắc Hiếu là một kẻ không có tư cách nhân phẩm gì nữa, khốn nạn vô cùng”. [1]

Cố nhiên, đến những năm 1938-39, TLVĐ sẽ thay đổi thái độ, trên Ngày Nay sẽ có những bài khen ngợi thơ Tản Đà, rồi nhà Đời Nay đề nghị in thơ Tản Đà thành các tập tuyển, v.v… Nhưng ở thời đầu TLVĐ, việc nhóm này đả kích Tản Đà, là điều thấy rõ; đó cũng là lúc phong trào thơ mới đang khởi lên, việc bài xích thơ cũ, khuếch trương thơ mới được xem là một nhiệm vụ lớn mà TLVĐ muốn giành lấy trọng trách.

Có thể nói, TLVĐ, thông qua các biếm họa, hý họa, các mục vui cười trên Phong Hóa, đã tỏ rõ một ý hướng liên tục bôi nhọ thể diện khá nhiều nhân vật uy tín đương thời. Trong số ấy, Tản Đà chỉ là một, và hẳn chưa phải là đối tượng hàng đầu. Bởi, ngay từ đầu, được nhắm đến thường xuyên ở các trang châm biếm, hý hước của Phong Hóa là bộ đôi Vĩnh – Quỳnh.

Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất sừ Ĩnh thứ hai sừ Uỳnh
Một sừ béo múp rung rinh
Một sừ lểu đểu như hình cò hương
Không vốn liếng chẳng ruộng nương
Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu
Bây giờ đang xỉa xói nhau
Người cầu lập hiến, kẻ câu trực quyền
“Thưa các ngài, thực vi tiên,
Muốn xem chiến đấu, quẳng tiền vào đây” [2]

Bài thơ châm biếm này phải chăng là “hiền lành”, “vô hại”, theo như lời bình của không ít phê bình gia hậu thế? Thưa không! Bởi sự lược quy nghề làm báo vào nghề “buôn bán dư luận”, – xưa cũng như nay, dù là câu đùa cũng vẫn cứ nhuốm màu xuyên tạc độc ác; vả chăng, tại sao văn phái Tự Lực lại loại trừ mình khỏi nghề “buôn bán dư luận” trong khi chính mình cũng làm báo? Ở đây, tư tưởng chính trị của Phạm Quỳnh về một nền “quân chủ lập hiến”, của Nguyễn Văn Vĩnh về thiết chế “cai trị trực tiếp” của chính quyền Pháp, – vốn là hai đề xuất có trọng lượng trong những thảo luận đương thời về tương lai chính trị Đông Dương, – đã bị nhóm Tự Lực đả kích phủ định. Vậy nên, có thể nói, nếu từ thời ấy cho đến tận cuối thế kỷ XX, một bộ phận lớn của công chúng người Việt vẫn còn giữ những định kiến bất công đối với hai nhân vật hàng đầu này của văn hóa Việt Nam thời hiện đại (Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh), thì, góp vào việc xây dựng những định kiến ấy, phổ cập định kiến ấy vào công chúng, không thể không có phần công sức đáng kể của Phong Hóa, Ngày Nay, hai cơ quan của TLVĐ!

Ngay Phan Khôi, cùng thế hệ Tản Đà, người đã rất sớm nhận ra và lên tiếng khen giọng điệu báo chí mới mẻ của Phong Hóa, [3] nhưng đáp lại, Phong Hóa luôn dùng lối giễu cợt để giữ khoảng cách, để dứt khoát gạt Phan Khôi về phái già. Bỏ qua rất nhiều trò chọc ghẹo vốn là đương nhiên khó tránh khỏi của thể tài hài báo, ít ra vẫn có một sai lạc không thể biện hộ, ấy là việc Phong Hóa và TLVĐ tạo ra thành ngữ “lý luận Phan Khôi” với hàm ý chế nhạo.

Trong khi tư duy lô-gích là cái thiếu nhất ở người Việt, trong khi Phan Khôi là nhà báo thể hiện sự cố gắng nhiều hơn hết để nghĩ mới về mọi sự mọi việc, trong khi chính TLVĐ cũng hướng tới cái mới, duy lý, tiến bộ cho văn hóa xã hội Việt, thì chính họ lại dựng lên thành ngữ này, hùa theo luồng định kiến thông tục cũ kỹ trong giới cầm bút vốn đặc trưng cho xu thế thù ghét lý tính, bài xích lý luận của số đông với tâm thế gia trưởng thủ cựu; ở phương diện này, Nhất Linh (nếu ông là tác giả chính của thành ngữ này) chỉ đứng ngang với những cây bút tầm thường, và tỏ ra thấp hơn Phan Khôi rõ rệt.

Nhưng khi đó Nhất Linh và các thành viên TLVĐ đã hành động theo lợi ích nhóm, mà chiến lược là hạ uy tín của những “đàn anh” trong báo giới văn giới, bất kể là ai.

Một trong những cách nữa để TLVĐ tạo sự chú ý đến sáng tác của các nhà văn trong nhóm là gây ra những sự cố. Tố cáo cây bút nào đó, càng có tên tuổi càng tốt, dường như đã “ăn cắp” tác phẩm của nhà văn nhóm mình, là một thủ đoạn đắc sách. Theo cách này, đầu năm 1936, Phong Hóa phao lên rằng Nguyễn Công Hoan đã “chịu khó sưu tầm để viết Lá Ngọc Cành Vàng giống Nửa Chừng Xuân, và  Cô Giáo Minh giống hệt Đoạn Tuyệt”. [4]

Cách tạo dư luận ở đây là tận dụng, lạm dụng văn trào lộng, hý hước, để khi bị chất vấn theo lối nghiêm chỉnh thì trả lời: đấy chỉ là một câu khôi hài. Nhưng họ biết, lời nói đùa có thể được công chúng tin chắc hoặc ngờ ngợ tin là thật, vì thế dù sao Nguyễn Công Hoan cũng phải lên tiếng, tuy ông chỉ nhấn mạnh rằng ý tứ truyện Cô Giáo Minh trái hẳn với Đoạn Tuyệt. [5] Đến lượt Khái Hưng đáp lại, khăng khăng giữ nhận định riêng: hai cuốn Cô Giáo Minh và  Đoạn Tuyệt “giống nhau lắm”, rồi đánh trống lảng, chuyển câu chuyện sang trò chơi phán đoán về giá trị: cuốn nào hay hơn sẽ còn lại, tất nhiên là lộ rõ cái ý: sách của tác giả TLVĐ nhất định phải hay hơn! [6]

Đặt trong tình trạng khá đa dạng về văn phái, về báo chí văn học đương thời, giọng điệu khẳng định tác phẩm của văn phái mình hay hơn các văn phái khác, báo mình xử sự tốt đẹp hơn báo khác, hầu như là một kỹ thuật phòng ngự-phản công rất mực phổ cập. Các báo Phong Hóa, Ngày Nay của TLVĐ không nằm ngoài ứng xử ấy. Khác với thái độ công bằng của Phan Khôi trong vai trò “Ngự sử đàn văn”, các trang Phong Hóa trên đó Hàn Đãi Đậu nhặt nhạnh “những hạt đậu dọn” trong vườn văn thiên hạ, thường lưu ý bắt bẻ những sai sót, lầm lạc trong thơ văn các tác giả khác, chứ gần như không khi nào động đến tác phẩm các thành viên TLVĐ.

Sự hoạt động liên tục của các trang này – bên cạnh tác dụng cảnh báo giới viết văn viết báo đương thời về nhiệm vụ làm sáng sủa câu văn tiếng Việt – còn mang lại những kết quả chỉ có lợi riêng cho TLVĐ, tạo cho văn đoàn này và các thành viên của nó một thế đứng trên, thế đứng đàn anh, áp đảo đối với các cá nhân nhà văn cũng như các văn phái khác, đương thời. Các tờ báo của TLVĐ có mặt liên tục trong gần 10 năm, cho nên áp lực mà họ tạo ra trong đời sống văn nghệ đương thời là rất mạnh, khiến họ mặc nhiên được xem như nhóm văn nghệ chi phối diện mạo văn học những năm 1930-40. Chỉ cần đọc hồi ức Nguyên Hồng về lần đầu tiên được gặp Thế Lữ, khoảng 1934-35 ở Hải Phòng, cảm nhận cảnh người anh họ sang trọng, tài cao, học cao, hỏi han ban phát và khích lệ người em họ nghèo khó ham học ham viết, [7] là có thể hiểu vì sao, khi nói tới Vũ Trọng Phụng, báo Ngày Nay lại sẵn sàng miệt thị ông là “nhà văn xã hội kỳ quặc” chuyên “lòe độc giả bằng cái học vấn sơ học của mình”. [8]

Giới nghiên cứu hậu thế hiện nay thường hướng cái nhìn ngưỡng mộ về di sản của TLVĐ, song cũng nên biết một phần dư luận đương thời đối với văn đoàn này ra sao. Người ta không khó để thấy được tìm được những ví dụ loại này ở báo chí Hà Nội đương thời.

Xin dẫn một số ý kiến độc giả gửi tới Hà Nội Báo, biểu đồng tình với việc báo này phê phán TLVĐ, nhân những tranh luận giữa tuần báo này với Phong Hóa, từ đầu năm 1936 cho tới khi Phong Hóa bị đóng cửa.

 Các độc giả này kể ra ba cái tội của báo Phong Hóa, trong đó bên cạnh tội chế giễu cái ngu dốt của dân quê và chế giễu những người tàn tật còn có tội dìm đồng nghiệp: “Không có một cách cạnh tranh bất chính nào là  Phong Hóa không dùng tới, để dìm đồng nghiệp xuống. Bất kỳ một tờ báo nào mới ra cũng bị Phong Hóa nói xỏ nói xiên, nói châm nói chọc, có khi kéo cả đại đội ra để công kích. Họ công kích như vậy để làm gì? Cốt cho đồng nghiệp lùi đi, để trên bãi cỏ xanh, chỉ còn một mình họ ăn…” (ý kiến ông Đặng Thế Xương).[9]

Như vậy, có thể nói, trong tầm nhìn của công chúng đương thời, tiếng nói của TLVĐ không phải chỉ có một chiều được hưởng ứng, đồng tình, mà còn gây không ít những phản cảm, phản kháng.

Nhìn chung, thái độ thường là kẻ cả, trịch thượng của các thành viên TLVĐ đối với các nhà văn và các nhóm văn nghệ khác đương thời, một mặt tạo cho họ uy thế, sự thán phục, sự lắng nghe, sự bắt chước, học theo làm theo, từ phía những cây bút khác, nhất là số người đang tập tành nghề viết; nhưng mặt khác cũng tạo khoảng cách giữa các nhà văn trong TLVĐ đối với các nhà văn khác. Khoảng cách này có thể đã khiến hầu hết các nhà văn trong TLVĐ xem thường, không tính đến, không xem xét, không tiếp nhận kinh nghiệm từ các nhà văn ngoài TLVĐ; đây là điều không hay, thậm chí có hại cho con đường sáng tác của họ.

Các nhà văn trong TLVĐ từng khiến giới viết truyện đương thời cảm phục và gắng sức đua theo, vì kiểu tiểu thuyết luận đề là do họ đề xướng và cho ra mắt những sản phẩm đầu tiên. Tuy vậy, điều đáng nói là, nếu như các cây bút văn xuôi trong TLVĐ đã in dấu vào mô hình thể tài tự sự này ở điểm khởi đầu, thì chính họ lại không có sản phẩm nào nằm trong sự kết tinh của cả quá trình phát triển ấy. Quả thật, không có tác phẩm nào đáng gọi là kiệt tác trong số các tiểu thuyết TLVĐ. Bởi nếu nói đến kiệt tác ở văn xuôi tự sự hư cấu giai đoạn ấy, người ta chỉ kể được Số Đỏ (của Vũ Trọng Phụng) và  Chí Phèo (của Nam Cao), hai tác phẩm của hai nhà văn ngoài văn đoàn Tự Lực.

Lý giải điều này là việc không dễ.

Tuy vậy, có thể nghĩ tới một trong những lý do là sự quá tự tín của các nhà văn trong TLVĐ. Họ đã nghĩ một cách nghiêm chỉnh đến việc tiếp nhận kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn Âu Tây, nhưng họ lại hầu như hoàn toàn xem thường kinh nghiệm sáng tác của giới viết văn người Việt cùng thời với mình.

Chẳng hạn, về ngôn ngữ, họ chủ trương và thực hành việc viết bằng một thứ tiếng Việt trong sáng, giản dị, dễ hiểu, song họ hầu như không để ý đến việc những người viết văn đương thời thể nghiệm hoặc xử lý ra sao đối với chất liệu đời sống Việt Nam hoặc chất liệu ngôn ngữ tiếng Việt. Hoặc, họ có hầu như ngay từ đầu những ý tưởng về nhu cầu thoát khỏi chế độ đại gia đình để tìm đến kiểu gia đình hạt nhân, vốn phù hợp với sự phát triển con người cá nhân của một lớp thanh niên mới xuất hiện trong xã hội thuộc địa Âu hóa những năm 1920-30; song họ có khá ít sự hiểu biết về các tầng lớp dưới, ở cả thôn quê lẫn đô thị cũng đương thời ấy. Thế nhưng họ lại xem thường những khảo sát về những lớp người ấy do các nhà văn nhà báo bên ngoài văn phái họ thực hiện. Các tiểu thuyết của họ có văn phong sáng sủa, mực thước, nhưng cả tác giả, người kể chuyện lẫn các nhân vật trong truyện đều nói cùng một giọng, mọi nhân vật đều nói như nhau, hầu như không cho thấy các sắc thái giọng nói.
 
Đấy chỉ là một trong số những dấu hiệu về sự khác biệt, song lại là khác biệt về “bí kíp” của sự nhạt nhẽo ngày càng lộ rõ trong ngôn ngữ của các tác gia văn xuôi TLVĐ, so với những sắc giọng đậm và mặn, có khi thô lỗ, có khi tục tằn, in dấu khẩu ngữ, biệt ngữ, phương ngữ trong mạch văn của không ít tác gia ngoài TLVĐ.

Mà đấy chỉ là một trong những ví dụ về hệ quả của thế đứng cách bức, trịch thượng và xa lạ, của TLVĐ so với những nhà văn đương thời ngoài nhóm ấy.

Điều đó gây thiệt hại cho họ, cho văn chương, chứ không phải cái gì khác.

Ngày Tự Lực văn đoàn công bố 10 tôn chỉ của mình, 2-3-1934, được coi là ngày thành lập hội đoàn sáng tác này. 10 tôn chỉ đó là:

 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.

 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn.

 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.

 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái.

 7. Trọng tự do cá nhân.

 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

 9. Đem phương pháp khoa học thái tây [gọi chung những nước Âu Tây] ứng dụng vào văn chương Việt Nam.

 10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.

(Theo wikipedia)

* Bài viết là bản rút gọn của bài đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 12 (tháng 12/2013), tr. 112-121.

 [1] Vũ Trọng Phụng: Để đáp lời báo “Ngày Nay”: Dâm hay là không dâm // Tương Lai, Hà Nội, s. 9 (25.3.1937)

[2] Phong dao mới // Phong Hóa, Hà Nội, s. 14 (22 Septembre 1932), tr. 2.

[3] Bài có lẽ sớm nhất của Phan Khôi về Phong Hóa là bài “Vẽ hình” trong mục “Những điều nghe thấy” ký Thông Reo (Trung Lập, Sài Gòn, ngày 5 và 6 Février 1933).

[4] Xem: Xuân thủ đâm ân // Phong Hóa, Hà Nội, s. 172 (31 Janvier 1936), tr. 3 (Lưu ý: đây là nhại mấy từ “Xuân thủ đàm ân” /= đầu xuân nói việc ơn ích/ mà các báo đương thời thường đặt làm tên mục thông tin những việc thăng thưởng cho quan lại, viên chức; tòa soạn Phong Hóa ghi chú từ “đâm” là “nẩy ra đâm ra”; đây là một trong rất nhiều mục châm biếm, hài hước thường xuyên trên báo Phong Hóa).

[5] Nguyễn Công Hoan: Từ “Đoạn Tuyệt” đến “Cô Giáo Minh” // Hà Nội Báo, Hà Nội, s. 9 (4 Mars 1936), tr. 8-9.

[6] Khái Hưng: Cùng ông Nguyễn Công Hoan // Phong Hóa, Hà Nội, s. 177 (6 Mars 1936), tr. 4 (đăng lại trên Hà Nội Báo, s. 11, ngày 18 Mars 1936, tr. 9-11)

[7] Nguyên Hồng: Nhà thơ ở Ngõ Nghè (trích hồi ký “Bước đường viết văn”, 1970) trong sách: Thế Lữ, Cuộc đời trong nghệ thuật, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1991, tr. 57-68.

[8] Nhất Chi Mai: Ý kiến một người đọc: Dâm hay không dâm? // Ngày Nay, Hà Nội, s. 51 (14 Mars 1937), tr. 137 [báo đánh số trang theo thứ tự trong bộ báo cả năm]

 [9] Tội trạng báo “Phong Hóa” // Hà Nội Báo, Hà Nội, s. 15 (15 April 1936), tr. 21.

Tác giả