Biết mình, biết người 2

Còn thiếu hẳn một chiến lựơc coi FDI là cứu cánh thực hiện CNH-HĐH khai thác thị trường mới và giành thị phần ngày một lớn hơn.

Đáng chú ý là những vấn đề lớn sau đây.
– Rất thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao,  thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và quản trị kinh doanh giỏi để cung cấp cho các dự án FDI làm ra những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Công tác tiếp thị thị trường FDI và đội ngũ cán bộ phụ trách vấn đề FDI các ngành các cấp có nhiều yếu kém; đặc biệt là còn rất yếu trong vấn đề cung cấp thông tin giúp các bên đối tác (phía ta cũng như phía nước ngoài) có nhiều khả năng lựa chọn các cơ hội và có những quyết định nhanh chóng.
– Chậm phát triển kết cấu hạ tầng, thiếu các mạng xí nghiệp vệ tinh thỏa mãn đầu vào cho những dự án FDI lớn, thiếu những quyết sách hữu hiệu cho việc hình thành những liên kết, liên doanh thúc đẩy quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế.
– Nhìn chung còn thiếu nhiều chính sách và những nỗ lực chính trị khác – kể cả trong lĩnh vực ngoại giao, nhằm giữ gìn chữ tín, tạo sự tin cậy làm ăn lâu dài, khiến cho giới FDI và nước chủ nhà có sự hợp tác cùng hội cùng thuyền, cùng ngồi chung một thuyền đi vào những thương trường mới, sản phẩm mới.
– Chưa chú ý xây dựng văn hóa hợp tác kinh doanh nhằm nâng đất nước ta lên thành môi trường lý tưởng thu hút FDI.
– v.v…

Hiện nay, những đối tác lớn bên ngoài đang có yêu cầu đa dạng hóa thị trường đầu tư, trong khi đó nước ta có vị thế kinh tế và chính trị ngày càng được cải thiện, chế độ chính trị ổn định, kinh tế phát triển năng động. Tình hình này đang mang lại cho nước ta cơ hội lớn đón bắt làn sóng FDI mới vào nước ta. Đã bắt đầu có dấu hiệu một “boom” mới về FDI vào Việt Nam. Thực tế này thôi thúc phải đẩy mạnh cải cách toàn diện, mau chóng thực hiện các lộ trình đã cam kết trong khung khổ WTO và trong những cam kết song phương và đa phương, nhằm tạo mọi điều kiện nắm bắt lấy cơ hội quan trọng này.

4. Những vấn đề lớn cần lưu ý sau khi gia nhập WTO
Ý thức cho kỳ được điều cốt tử
Sau khi nước ta gia nhập WTO không phải mọi chuyện đều vui. Không phải ai cũng vui. Hội nhập kinh tế thế giới còn có nhiều điều cay đắng.
Là nước nghèo và chưa ra khỏi tình trạng chậm phát triển, khả năng thích nghi và cạnh tranh đều yếu kém, nên những điều cay đắng đối với nước ta không phải là ít và dễ chịu đựng.
Nạn nhân đầu tiên là những sản phẩm không trụ được trên thị trường thuế quan thấp hoặc có thuế suất bằng không – nhất là sản phẩm của những ngành công nghiệp non trẻ; sự bảo hộ cuối cùng là bảo hộ bằng các biện pháp kỹ thuật cũng phải dỡ bỏ dần.
Nạn nhân đầu tiên là những sản phẩm lỗi thời bị các sản phẩm mới thay thế một cách không thương tiếc trên thị trường mở cửa cho cả thế giới.
Nạn nhân đầu tiên là những người lao động không thích nghi kịp hoặc không đáp ứng được những đỏi hỏi do sản phẩm mới đặt ra…
Nạn nhân đầu tiên là mọi phương thức làm ăn trong những khung khổ pháp chế và những chế định trái hay không khớp với những tiêu thức chung đã được thừa nhận trong WTO…
Còn nhiều nạn nhân khác nữa.
Nạn nhân “nặng ký” nhất là sự tụt hậu về tư duy trong một thế giới đã thay đổi sâu sắc.
Cho nên hội nhập dù có mang tính tất yếu sống còn đi nữa, xin đừng quên sự thật lạnh lùng mà các nạn nhân khác nhau đang phải đối mặt. Bởi vì trên sân chơi chung và bình đẳng của thị trường, mỗi sản phẩm có lợi thế cạnh tranh khác nhau, mỗi quốc gia, tập đoàn, mỗi con người thường có những điều kiện và khả năng phấn đấu khác nhau. Trên thế giới kẻ được người thua trong hội nhập là chuyện xảy ra hàng ngày, trong phạm vi một quốc gia cũng vậy.
Đương nhiên vai trò nhà nước, các thể chế và tổ chức xã hội ở nước ta có trách nhiệm lớn trong việc cùng với toàn dân khắc phục những khập khiễng này; nhưng quyết định vẫn là sự nỗ lực của từng công dân, từng doanh nghiệp quyết vượt qua mọi khó khăn.
Hiện tại thời đại toàn cầu hóa kinh tế thế giới đã đạt tới nấc thang phát triển: Ngày nay cả thế giới thách thức một người, một người có khả năng coi cả thế giới là đối tượng lao động của mình.
Thành – bại, vinh – nhục đối với một quốc gia, một doanh nghiệp, một cá nhân tùy thuộc vào khả năng ý thức điều cốt tử này. Một sản phẩm đưa ra thị trường, hay kết quả làm việc của một lao động – dù là trong cơ quan hành chính sự nghiệp, ngày nay đều phải chịu một thước đo chung và mọi thử thách khác của cả thế giới, đồng thời cũng có thể nhằm vào cả thế giới.
Câu chuyện đối với nước ta không phải là ngồi than vãn sức cạnh tranh của mình chênh lệch quá lớn so với thiên hạ, vì nước đi sau nào thoát được sự chênh lệch này? Câu chuyện đích thực của nước ta là phải ý thức được cái điều cốt tử này để có phương hướng hành động – từ suy nghĩ của một cá nhân cho đến chính sách của nhà nước.
Một khi nhìn thấy sản phẩm hay kết quả lao động của mình chịu sự thách thức của cả thế giới, thì sẽ không đem ta hôm nay ra so sánh với ta hôm qua nữa, mà là so sánh với cả thế giới; ta sẽ nhận biết ta rõ hơn – nghĩa là biết mình rõ hơn, sẽ hiểu cơ hội và thách thức đến từ đâu – nghĩa là biết người rõ hơn. Một khi có ý thức có thể coi cả thế giới là đối tượng lao động của mình, thì sẽ có ý chí tìm cách thoát khỏi cái vung trời lơ lửng úp trên đầu đang thu hẹp tầm nhìn của chúng ta, sẽ lựa chọn quyết sách nuôi chí lớn. Cuối cùng là sẽ tìm ra con đường biến cả thế giới thành đối tượng lao động của mình. Nghĩ, sống và làm ăn lâu dài là từ đây. Chống tình trạng ăn xổi ở thì và tự ti là từ đây. Quyết tâm đi tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh nhất thiết phải có ý chí này.
Cả nước, trước hết là nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, cần xác lập ý chí này làm động lực đẩy mạnh cải cách toàn diện, nhằm giải phóng mọi nguồn lực của đất nước, để có thể chủ động khai thác những quy chế của WTO. Mọi cái giá phải trả để vào WTO chỉ có ý nghĩa khi nước ta có bản lĩnh khai thác được tối đa những quy chế này.
Đối với mỗi công dân Việt Nam, mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc ta, yêu nước bây giờ trước hết là dám chấp nhận thách thức của cả thế giới, có ý chí coi cả thế giới là đối tượng lao động của mình, cả nước cùng nhau ra sức xây dựng xã hội học tập, xã hội thông tin để hun đúc ý chí như thế.

Một nước CNH-HĐH, hay bãi rác?
Khi là thành viên của WTO, câu hỏi này càng trở nên nóng bỏng đối với nước ta.
Bởi lẽ: khả năng tiếp thụ kém, khả năng cạnh tranh kém, nền kinh tế nước ta dễ có nguy cơ trở thành “bãi rác” khi mở cửa và hội nhập toàn diện vào kinh tế thế giới. Điều này không phải là hoang tưởng, mà đang là sự thực chua xót tại nhiều nước đang phát triển là thành viên của WTO từ hàng chục năm nay tại Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Tầm nhìn kinh tế hạn chế, tư tưởng ăn xổi ở thì, hiện tượng thiếu chăm lo thỏa đáng cho cái lâu dài, cùng với phương thức làm ăn “bóc ngắn cắn dài” và đầu tư theo kiểu vào lỗ hà ra lỗ hổng như những PMU 18, những đường hầm Văn Thánh… và nhiều yếu kém khác xảy ra trong thực tế đời sống kinh tế nước ta đang có xu hướng thai nghén “cái bãi rác”.
Trong quá khứ không xa đã xảy ra các công trình xi-măng lò đứng, là “mía – đường”, nhiều xí nghiệp công nghiệp đã chết khác… Trong hiện tại là phong cách làm ăn tranh thủ được gì làm nấy – như xe máy, ôtô, đóng tầu, cán thép, xuất khẩu than, các nguyên liệu và sản phẩm thô khác… Phương thức làm ăn này khá thụ động, chứa đựng nhiều điều nan giải. Một trong những ví dụ thời sự hiện nay là duy trì ngành công nghiệp ô-tô như thế nào trong bối cảnh phải mở cửa thị trường nhập ô-tô cũ, tán thành hay chống đều chưa có lý lẽ thuyết phục – vì chưa đặt câu chuyện ngành công nghiệp ô-tô vào tổng thể chiến lược CNH-HĐH của nước ta ở thời điểm toàn cầu hóa hiện nay trên thế giới! Chặng đường CNH-HĐH đã đi quá nửa về thời gian, mà hôm nay vẫn khó hình dung nước ta vào khoảng năm 2020 là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại sẽ có diện mạo như thế nào, kinh tế tri thức phát triển đến đâu. Nhìn vào quy hoạch phát triển cho những yêu cầu lớn như kết cấu hạ tầng, đô thị hóa, mở mang công nghiệp và các ngành dịch vụ khác…, nỗi lo “bãi rác” càng không thể xem thường.
Ngoài ra còn phải nói so với số dân, quỹ đất ở nước ta rất hẹp (dưới mức bình quân của cả thế giới, mật độ dân số cao hơn cả của Trung Quốc…), yêu cầu mở mang kết cấu hạ tầng trong những năm tới rất lớn, do nhiều nguyên nhân giá đất ở nước ta rất cao. Ngoài ra còn phải tính đến thị trường đất đai và bất động sản hiện nay mang nhiều tính đầu cơ và đang gây một sức ép đáng kể lên nền kinh tế. Giả thử cho đến năm 2020 nước ta cần một mạng đường bộ các loại gấp 2 lần hoặc hơn nữa như hiện có để đáp ứng những yêu cầu phát triển của một nước công nghiệp, điều gì sẽ xảy ra và tốn kém như thế nào? Có thể nói vắn tắt: quỹ đất hiếm, quản lý kém hiệu quả, giá đất cao, chất lượng quy hoạch thấp, những điều này đang trực tiếp ảnh hưởng đến thu hút FDI nói riêng và quá trình CNH – HĐH (bao gồm cả quá trình đô thị hóa) nói chung. Tình hình đất đai như vậy tác động không lợi vào việc phát huy lợi thế cạnh tranh của đất nước.
Chất lượng nguồn nhân lực như hiện nay chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế nói chung và quá trình CNH-HĐH nói riêng. Điều này cũng đang trở thành nỗi lo đáng kể cho việc phát huy lợi thế cạnh tranh với tính cách là thành viên WTO. Ngoài ra còn phải kể đến những yếu kém khác trong năng lực quản lý đất nước, trong năng lực làm chính sách…
Xin nhắc lại: Vào WTO mà không tận dụng được mọi điều kiện để phát huy lợi thế cạnh tranh là thất bại, tất yếu đi tới “bãi rác” – không một duy ý chí nào có thể cưỡng lại nổi.
Xem xét như vậy, nên chăng tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn chiến lược phát triển?
Nội dung của cuộc điều chỉnh này là ưu tiên phân bổ nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng phần cứng và phần mềm, phát triển nguồn nhân lực, chấm dứt hẳn việc dùng ngân sách nhà nước hay các nguồn nhà nước đi vay để đầu tư hay hỗ trợ đầu tư vào các dự án công nghiệp, ban hành các thể chế và chính sách giải phóng và không phân biệt đối xử mọi nguồn lực của cả nền kinh tế, khuyến khích thu hút FDI, khuyến khích hình thành các liên kết, liên doanh giữa trong nước với FDI; cải tiến mạnh mẽ hệ thống ngân hàng, ban hành những khuyến khích định hướng và cung cấp tối đa các dịch vụ thông tin, dịch vụ kỹ thuật – tất cả nhằm tạo ra thị trường đầu tư tốt nhất cho những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và tỷ lệ lãi cao, có khả năng chiếm được thị phần lớn ở trong nước cũng như trên thế giới. Đấy chính là tinh thần coi cả thế giới là đối tượng lao động của mình.
Xin lưu ý, sản phẩm và thành quả lao động của nước ta trong hội nhập  có đạt thương hiệu được thị trường thế giới xác nhận, thì đất nước mới có cơ may sớm tiến lên giàu mạnh. Mà ai cũng biết con đường xây dựng thương hiệu chỉ hứa hẹn thành công bằng chữ tín của bản thân và bằng những mối liên kết, liên doanh có hiệu quả với các đối tác có tên tuổi ở thế giới bên ngoài.
Nói ngắn gọn, vào WTO là để tìm cách mở rộng không gian kinh tế cho sự nghiệp chấn hưng đất nước và phải tránh bằng được nguy cơ “bãi rác”. Muốn thế phải từ bỏ con đường nhà nước làm công nghiệp hóa, để chuyển hẳn sang con đường nhà nước tạo mọi điều kiện mang tính định hướng, để cho công nghiệp phát triển theo xu thế vận động của kinh tế thế giới. Nghĩa là nhà nước tìm cách để cho thị trường làm công nghiệp hóa theo hướng đáng mong muốn. Ngành công nghiệp nào ra đời, kinh tế phát triển theo hướng nào…, chủ yếu phải dựa trên cơ chế thị trường, phù hợp với xu thế vận động của kinh tế thế giới, nhà nước đưa ra được những điều kiện định hướng và những ưu đãi, những khuyến khích có hiệu quả. Vai trò nhà nước không nên đi quá phạm vi này, lại càng không được trực tiếp làm kinh tế. Tóm lại, nhà nước phải thực hiện tốt vai trò bà đỡ của mình đối với nền kinh tế, làm cho nền kinh tế vận động đúng nguyên lý cơ bản: Thị trường quyết định sản phẩm, sản phẩm quyết định chính sách.
Thúc đẩy doanh nghiệp xông ra thị trường, để doanh nghiệp chịu sự đào thải và tôi luyện của thị trường, nhà nước hậu thuẫn hết lòng – đó là con đường thành công của nhiều quốc gia. Nhà nước xông vào thị trường, nhà nước làm kinh tế, thường xảy ra là nhà nước bị thị trường đào thải, con đường này đã khiến cho nhiều quốc gia mất cả chì lẫn chài. Trong khung khổ thể chế WTO “luật chơi” này càng nhạy cảm.

Bài toán nào cho phát triển nông nghiệp và nông thôn?
Trước hết cần nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn ở nước ta gắn kết hữu cơ với quá trình đô thị hóa, vừa là tiền đề vừa là kết quả của quá trình CNH-HĐH.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề văn hóa, vừa là vấn đề môi trường, đòi hỏi phải xử lý đồng bộ trong quá trình đô thị hóa cũng như trong quá trình CNH-HĐH. Đặc biệt 2/3 số dân nước ta còn đang sống trong khu vực nông thôn, nông dân lại là lực lượng chủ lực trong những giai đoạn cách mạng vừa qua, nên phát triển nông nghiệp và nông thôn còn là vấn đề phát triển đất nước nói chung và là một vấn đề chính trị trọng đại. Trong bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta như vậy, vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ khó nhất trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, quyết định thành bại sự nghiệp CNH-HĐH, bảo đảm ổn định chính trị và an ninh của đất nước.
Hội nhập kinh tế thế giới, nhất là sau khi gia nhập WTO còn đặt ra vấn đề sản phẩm nông nghiệp nước ta cạnh tranh như thế nào với cả thế giới về giá cả, chất lượng, điều kiện lao động, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường.., nhất là các nước phát triển thường hỗ trợ cho sản phẩm nông nghiệp của họ tới 30 – 40% giá thành và nhiều dịch vụ kỹ thuật khác. Ngoài ra để nâng cao lợi thế cạnh tranh, vấn đề thời sự trong nông nghiệp nước ta là làm gì để nâng cao hàm lượng chế biến trong sản phẩm nông nghiệp, phát triển những sản phẩm nông nghiệp cao cấp khác có thị trường tiêu thụ trong nước và trên thế giới.
Cái khó lớn nhất của nông nghiệp và nông thôn nước ta là cái nghèo, đặc biệt là cái nghèo ở các vùng sâu vùng xa. Song bù lại, nhìn chung nước ta có lực lượng lao động trong nông nghiệp và nông thôn hùng hậu, có đức tính lao động cần cù, phần lớn được hưởng chế độ giáo dục phổ cập, có nhiều ngành nghề phi nông nghiệp, có nhiều tiềm năng tiếp thụ tiến bộ kỹ thuật cho sản phẩm mới.
Nhìn vào những kinh nghiệm thành công ở nông thôn nước ta, ở nông thôn các nước Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc…, phải chăng phát triển nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam thời hội nhập nên đi trên cả 2 hướng:
(a)   Nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của những sản phẩm nông nghiệp hiện có, phát triển sản phẩm nông nghiệp mới;
(b)  Phát triển những xí nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa phục vụ những yêu cầu của địa phương, phục vụ phát triển công nghiệp cả nước nói chung, khuyến khích trực tiếp tham gia xuất khẩu.
Để làm được như vậy, vai trò nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tạo những điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng; hình thành các thể chế pháp luật và những chính sách khuyến khích, ưu đãi nông nghiệp và nông thôn; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, pháp lý, thông tin; hỗ trợ đào tạo ngành nghề; phát triển thương mại và ngoại thương; thiết lập hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu; thu hút nguồn vốn trong nước và nước ngoài về nông thôn…
Dân dã đã tổng kết, phát triển nông nghiệp và nông thôn đi theo 2 hướng nêu trên là phương thức phát triển nông nghiệp và nông thôn dời nông nghiệp nhưng không dời làng. Nhìn vào các thị trấn, thị tứ mới hình thành trong các vùng nông thôn đông dân ở nước ta trong 20 năm qua, có thể nói đấy là con đường phát triển nông nghiệp và nông thôn đầy hứa hẹn, cần được hỗ trợ bằng những quy hoạch phát triển được tính toán thấu đáo và bằng những chính sách khôn ngoan. Thực tế này cho thấy nông nghiệp và nông thôn nước ta hoàn toàn có khả năng phát triển nhanh và vững chắc.
Tuy nhiên không thể phủ nhận áp lực rất lớn của các định chế và nhiều chính sách khác của WTO đối với sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển – trong đó có nước ta. Vấn đề sản phẩm nông nghiệp cũng là một trong những vấn đề đàm phán gay go nhất trong vòng Doha hiện nay và chưa ngã ngũ. Song thẳng thắn mà nói, thách thức lớn nhất đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta là nhà nước có làm tốt được vai trò và nhiệm vụ phải làm của nó như đã trình bày hay không? Điểm lại, phải thừa nhận nhà nước ta chưa làm được nhiều, đã thế lại mất khá nhiều thời giờ và công sức vào những chuyện như phát triển hay không phát triển kinh tế trang trại, phát triển đến đâu? Hạn điền hay không hạn điền? Những hợp tác xã ta cố duy trì theo Luật Hợp tác xã thì thiếu sức sống, trong khi đó những hợp tác xã do dân tự lập ra theo cách làm của dân có sức sống lạ thường và đang cần những hỗ trợ đích đáng – nếu không sẽ dễ biến tướng và bị thao túng… Đem so sánh nhà nước ta làm gì cho nông nghiệp với việc nhà nước Thái Lan, Hàn Quốc hay Đài Loan làm gì cho nông nghiệp, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. Đảng ta thường nhấn mạnh liên minh công nông, nhưng trên thực tế những yếu kém này là chỗ yếu nhất trong thực hiện liên minh công nông. Gia nhập WTO, cần đặc biệt quan tâm khắc phục yếu kém này.

…Tạo ra yếu tố nhân hòa tốt nhất
Là nước nghèo, lại đi sau, sự lựa chọn tối ưu cho nước ta là tận dụng mọi lợi thế nước đi sau để tìm cách phát huy tối đa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của mình, vượt lên thu hẹp khoảng cách tụt hậu, tìm đường tiến lên hàng ngũ các nước công nghiệp hiện đại.
Trong loạt bài “Thời cơ vàng” tôi đã có dịp trình bày, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, nước ta đang hội tụ được mọi điều kiện bên trong, bên ngoài cần thiết cho sự nghiệp chấn hưng đất nước. Chỉ cần tạo ra được yếu tố nhân hòa tốt nhất, nước ta sẽ làm nên tất cả. Đó là xây dựng và phát huy con người Việt Nam, tinh thần dân tộc Việt Nam, xây dựng một Nhà nước Việt Nam làm bà đỡ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Tự do dân chủ, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự ở trình độ ngày nay là những thành quả vô cùng quý báu của văn minh nhân lọai, là xu thế tiến bộ đang nảy nở trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với nước ta, đấy chính là các điều kiện không thể thiếu để tạo ra yếu tố nhân hòa tốt nhất, đúng với tinh thần: giải phóng con người, con người là trung tâm của sự phát triển. Có con người được giải phóng mới có tất cả. Nói cho cùng cái đích này mới thật là xã hội chủ nghĩa. Một quốc gia có những con người như thế mới có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường thế giới.
Tiến cùng thế giới, tiến cùng thời đại, không có lý do gì để chối bỏ những thành tựu của văn minh nhân loại. Hội nhập là để tranh thủ mọi điều kiện mau chóng vận dụng thành công những thành tựu của văn minh nhân loại. Mang danh định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng phải tìm cách làm chủ những thành tựu này. Chỉ có con người được giải phóng, tinh thần dân tộc được phát huy, Việt Nam mới có thể sớm trở thành một thành viên bình đẳng trong WTO, bằng không sẽ chỉ tranh được cái chân thành viên loại hai, ba, bốn.., – nghĩa là tụt hậu mãi mãi.

III. Trách nhiệm của Đảng lãnh đạo
Đại hội X khẳng định đẩy mạnh chỉnh đốn và xây dựng Đảng là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của khóa này. Đấy là một quyết định chính xác, nói lên quyết tâm làm tròn sứ mệnh là đảng lãnh đạo của đất nước trong thời đổi mới, tiến hành CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế thế giới.
Nếu nhìn vào những tha hóa và yếu kém nhiều đảng viên mắc phải đến mức có đồng chí lãnh đạo phải thừa nhận có những lỗi lầm thuộc về hệ thống, chúng ta cắt nghĩa tình trạng này như thế nào? Mọi người đều thấy nhiều hiện tượng tha hóa biến chất của đảng viên đã ảnh hưởng xấu đối với đời sống văn hóa, tinh thần của đất nước, đang làm đảo lộn nhiều thang giá trị phải gìn giữ. Báo cáo Chính trị tại Đại hội X nghiêm khắc thừa nhận những yếu kém xảy ra đang làm cho lòng tin của nhân dân vào Đảng bị tổn thương, giảm sút.
Đứng trước tình tình này, không thể không đặt ra câu hỏi: Suốt 20 năm đổi mới vừa qua không một lúc nào Đảng ta sao lãng nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thế nhưng tại sao lại có sự hẫng hụt như vậy về phẩm chất và năng lực lãnh đạo so với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng?
Phải đi tìm người thày là lịch sử để có câu trả lời tin cậy.
Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng của Đảng ta, phải chăng Đảng ta xác lập được vai trò lãnh đạo của mình là nhờ vào 4 yếu tố chính sau đây:
• giác ngộ những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cỏch mạng nước ta
• vạch ra được đường lối đúng đắn giành thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng,
• tổ chức thực hiện thành công đường lối cách mạng đã vạch ra,
• toàn Đảng và từng đảng viên xả thân chiến đấu và đi tiên phong trong việc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng đã đề ra.

4 yếu tố nêu trên cho phép kết luận: Đi tiên phong về tư duy nhận thức nhiệm vụ cách mạng, có phẩm chất chiến đấu ngoan cường thực hiện nhiệm vụ cách mạng – chính hai điều kiện này đã xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đã đem lại thắng lợi cho dân tộc, cho đất nước từ Cách mạng Tháng Tám đến nay.
Phân tích sự hẫng hụt về phẩm chất và năng lực của Đảng hiện nay cũng cho thấy trong Đảng hiện nay có hai yếu kém cơ bản: (a) tính tiền phong chiến đấu và (b) phẩm chất cách mạng của Đảng đang có khoảng cách không thể xem thường so với nhiệm vụ cách mạng ngày nay đòi hỏi.
Phải chăng vì chưa làm rõ hai yếu kém cơ bản này trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, nên công tác chỉnh đốn và xây dựng Đảng chưa đi vào được thực chất của vấn đề, và điều này cắt nghĩa vì sao nhiệm vụ chỉnh đốn và xây dựng Đảng luôn luôn được đặt lên hàng đầu mà đến nay vẫn không mang lại kết quả mong muốn?
Không phải ngẫu nhiên, để dứt khỏi đường mòn và tiến được vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI đã phải đề ra yêu cầu: Nhìn thẳng vào sự thật và đổi mới tư duy.
Nhìn vào những thành tựu giành được trong 20 năm đổi mới, điều rất rõ là những thành tựu này đều gắn với đổi mới tư duy của Đảng và gắn với ý chí thực hiện đường lối đổi mới; những yếu kém vấp phải trong thời gian này đều có nguyên nhân từ sự lạc hậu của tư duy và sự sa sút của phẩm chất cách  mạng.
Giai đoạn cách mạng mới của đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn diện vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới đặt ra cho nước ta những đòi hỏi và những nhiệm vụ chưa hề có. Đi tiên phong về tư duy nhận thức những đòi hỏi và nhiệm vụ mới của đất nước, đi tiên phong về tư duy nhận thức những thời cơ và thách thức mới, có trí tuệ và bản lĩnh dẫn dắt đất nước thành công trên con đường chấn hưng đất nước, có phẩm chất xả thân phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đấy chính là nội dung cốt yếu của nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn và xây dựng Đảng.
Nói một cách khác, nhiệm vụ cách mạng của Đảng trước đây là đi tiên phong trong sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, ngày nay là đi tiên phong trong sự nghiệp giải phóng mọi nguồn lực của đất nước, dẫn dắt đất nước tiến bước thắng lợi trên con đường hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới, tất cả nhằm thực hiện thành công sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nói ngắn gọn, Đảng phải đi tiên phong trong việc vận dụng mọi thành quả văn minh của nhân loại để tạo mọi điều kiện cho quốc gia mình, dân tộc mình sớm đi tới đích. Lãnh đạo có nghĩa là như vậy.
Đặt vấn đề như vậy trước hết có nghĩa Đảng phải đi tiên phong và có phẩm chất cách mạng thực hiện tự do dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng xã hội công dân, giải phóng con người và mọi nguồn lực của đất nước, xây dựng sự đồng thuận vững chắc của toàn dân tộc, để trong một tương lai không xa dựng lên được một nước Việt Nam thịnh vượng, hạnh phúc. Đấy chính là chủ nghĩa xã hội đích thực Đảng ta cần đem hết trí tuệ, nghị lực và nhiệt tình cách mạng lãnh đạo dân tộc ta phấn đấu thực hiện bằng được.
Đặt vấn đề như vậy, phải đổi mới hẳn nội dung chỉnh đốn và xây dựng Đảng.
Đặt vấn đề như vậy phải đổi mới hẳn phương thức và nội dung Đảng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo hệ thống chính trị của đất nước.
Đặt vấn đề như vậy có nghĩa làm cho sự lãnh đạo của Đảng trở thành tiền đề cho việc dẫn dắt đất nước thành công trên con đường hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày nay, bảo đảm cho Việt Nam sớm trở thành một thành viên có vị thế xứng đáng trong WTO nói riêng và trên trường quốc tế nói chung.
Đại hội VI là một mốc son trong lịch sử Đảng ta, mở ra thời kỳ đổi mới và thay đổi hẳn vị thế của đất nước, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới. Những người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam hãy đem tất cả trí tuệ và lòng yêu nước của mình, dốc lòng phấn đấu thực hiện cam kết của Đảng trước dân tộc đã ghi trong Nghị quyết của Đại hội X: Sớm đưa nước ta thoát khỏi nước nghèo và chậm phát triển vào năm 2010.
Đi tiên phong về nhận thức con đường phát triển của đất nước thời hội nhập vào kinh tế thế giới toàn cầu hóa ngày nay, đi tiên phong tạo ra yếu tố nhân hòa tốt nhất trong cộng đồng dân tộc để xây dựng thành công nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ và văn minh – đấy chính là thước đo, là hòn đá thử vàng đối với người cộng sản Việt Nam, là con đường tiếp tục kế thừa sứ mệnh của Đảng đối với đất nước, đối với dân tộc mà Đảng ta đã gánh vác trên vai mình kể từ ngày thành lập. Đấy là con đường Đảng trường tồn với dân tộc.
 
Thay cho phần kết luận: Sự lựa chọn của chúng ta
Hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế trong một thế giới phát triển năng động và đầy biến động, nước ta lựa chọn phương thức ứng xử nào?
Muốn hay không, trước hết cần phải thừa nhận trên thế giới ngày nay có nhiều biến động và tác động ngoài ý muốn của chúng ta. Ai dự báo được điều gì một khi giá dầu lửa trên thế giới lên tới 100 USD một thùng hoặc hơn nữa? Tác động như thế nào vào kinh tế thế giới, vào khu vực, vào nước ta? Chiến tranh Iraq sẽ đi tới đâu? Cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Bắc Triều Tiên chưa giải quyết xong lại xuất hiện thêm vấn đề làm giàu uranium ở Iran – một trong những nước OPEC xuất khẩu nhiều dầu nhất thế giới… Nếu đồng dolar tiếp tục mất giá… vân vân… Hôm kia là áp dụng luật chống phá giá đối với cá basa của ta, hôm qua là tôm… Hôm nay là giày dép và đồ may mặc vào thị trường EU… Những hoạt động khủng bố… Nguy cơ bùng phát dịch cúm gia cầm H5N1…
Chúng ta lựa chọn cách ứng xử nào trong thế giới này?
Toàn cầu hóa kinh tế đang tiếp tục làm đảo lộn cả thế giới. Nhưng toàn cầu hóa kinh tế không đảo lộn được nguyên lý: Có thực mới vực được đạo! Mạnh vì gạo, bạo vì tiền…
Nước ta hình như chỉ có một sự lựa chọn: Phải làm cho mình giữ được cái nguyên lý mà toàn cầu hóa kinh tế phải kiêng nể. Nghĩa là nước ta phải giàu nhanh lên, mạnh nhanh lên. Đến mức: Phải giàu mạnh nhanh lên, hay là chết!?

Đi với cả thế giới để giàu mạnh nhanh lên, hay là chết!
Người Việt Nam, trước hết người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể vô cảm với thách thức này?

Nguyễn Trung

Tác giả

(Visited 1 times, 1 visits today)