Khác biệt và phức tạp so với các chuẩn mực quốc tế
Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) lại vừa ra qui định và tiêu chuẩn mới cho chức danh giáo sư và phó giáo sư. Qui định mới có phần hợp lí hơn so với các qui định trước, nhưng vẫn còn rất khác và phức tạp hơn so với các chuẩn mực ở nước ngoài.
Cách tính điểm bài báo khoa học. Theo qui định mới, “bài báo khoa học đặc biệt xuất sắc được đăng trên các tạp chí hàng đầu quốc tế và Việt Nam được nhiều người trích dẫn” có điểm tối đa là 2. Ở đây có hai vấn đề. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều tập san khoa học (khoảng 108.000 tập san và con số vẫn gia tăng) với chất lượng thượng vàng hạ cám, dù chúng đều có danh xưng “quốc tế” đâu đó trong tên gọi. Để sàng lọc thật và giả, Viện Thông tin Khoa học (Mỹ) căn cứ vào một số tiêu chuẩn về hoạt động và thời gian lập nên một danh sách chỉ trên dưới 5000 tập san mà giới chuyên môn công nhận là “nghiêm chỉnh”.
Viện Thông tin Khoa học còn phát triển một chỉ số để đánh giá chất lượng của một tập san, và chỉ số đó có tên là “hệ số ảnh hưởng” (impact factor, IF). Chỉ số IF dao động từ 0 đến 80 giữa các tập san. Nói chung, tập san có IF cao cũng là tập san có uy tín cao và ảnh hưởng lớn hơn các tập san có IF thấp. Nhưng IF còn tùy thuộc vào bộ môn khoa học, với những bộ môn thực nghiệm thường có IF cao hơn các bộ môn như xã hội học và toán học. Theo tôi biết, chưa một tập san khoa học nào của Việt Nam có chỉ số IF.
Những vấn đề thực tế trên cho thấy không thể đánh giá một công trình đăng trên tập san Việt Nam bằng một công trình đăng trên một tập san quốc tế với IF trên 10. Tương tự, cũng không thể xem một bài báo trên một tập san ở Úc, Nhật, Hàn Quốc, hay Trung Quốc với chỉ số IF < 1 bằng một bài báo trên một tập san ở Mỹ với IF > 20, dù tất cả đều là “tập san quốc tế”. Ngoài ra, cũng không thể đánh giá IF của tập san toán giống với một tập san ngành y học. Do đó, không nên cho điểm một bài báo khoa học một cách máy móc mà không xem đến tập san bài báo đó được công bố.
Nhưng IF chỉ phản ảnh uy tín và chất lượng của một tập san, chứ không phản ảnh chất lượng của bài báo trên tập san đó. Một công trình nghiên cứu có thể công bố trên một tập san có IF cao nhưng không được ai trích dẫn thì không có giá trị bằng một công trình công bố trên một tập san có IF thấp nhưng được nhiều người trích dẫn. Trong thực tế, có hơn 50% các bài báo trên các tập san quốc tế chẳng bao giờ được ai trích dẫn! Do đó, khi xem xét cho điểm bài báo, cũng cần phải xem chỉ số trích dẫn, chứ không chỉ IF của tập san.
Số lần trích dẫn bao nhiêu thì phản ảnh chất lượng?
Không có câu trả lời cụ thể cho câu hỏi này. Vì chỉ số trích dẫn còn tùy thuộc theo “văn hóa ngành” (tức một số ngành như toán có chỉ số trích dẫn thấp hơn các ngành khác như vật lí hay sinh học), do đó cần phải điều chỉnh cho từng tập san. Theo đó, nếu số lần trích dẫn của bài báo cao hơn chỉ số trích dẫn trung bình của tập san thì có thể được xem là có chất lượng cao. Chẳng hạn như tập san A có chỉ số trích dẫn trong 10 năm là 35 lần / bài báo, và nếu một bài báo của ứng viên trên tập san đó có số lần trích dẫn trên 35 lần thì được xem là có chất lượng cao.
Vị trí tác giả trong việc định điểm. Phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam thường là hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài, và tác giả Việt Nam thường không đứng tên đầu, tức không phải là người chủ trì công trình nghiên cứu. Do đó, nếu một ứng viên có nhiều bài báo khoa học dù trên các tập san có IF cao, nhưng nếu chỉ đóng vai trò “tác giả phụ”, thậm chí “tác giả làm quà” (gift author) thì không thể đánh đồng với một tác giả chính được. Cần nói thêm rằng, hiện tượng “gift author” là hiện tượng trong đó các nhà khoa học cho tên của đồng nghiệp hay cấp trên của mình vào danh sách tác giả dù người này chẳng biết hay chẳng dính dáng gì đến công trình nghiên cứu. Hiện tượng gift author khá phổ biến trong khoa học, nhất là ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong các qui định của Hội đồng chức danh, không thấy nói đến vấn đề tế nhị như tôi vừa đề cập.
Sách chuyên khảo. Theo qui định mới thì sách chuyên khảo được 3 điểm, sách giáo trình 2 điểm, sách tham khảo 1,5 điểm, và sách hướng dẫn 1 điểm. Những ai làm nghiên cứu khoa học thực nghiệm đều biết rằng sách, dù là sách chuyên khảo, chỉ là tập hợp những công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tập san. Trong ngành y, sinh viên ít khi học từ sách, mà học từ các bài báo khoa học trên các tập san khoa học, bởi vì sách thường lạc hậu hơn tập san.
Do đó, không nên quan trọng hóa việc đánh giá hay cho điểm sách như là một tiêu chuẩn đề bạt chức danh GS/PGS, bởi vì sách không có giá trị như là những công trình nghiên cứu trên các tập san khoa học có IF cao. Ở nước ngoài, các hội đồng khoa bảng khi duyệt đơn đề bạt giáo sư ít khi quan tâm đến sách.
Giáo sư giảng dạy và giáo sư kiêm nhiệm. Theo qui định mới, “điểm sàn” của giáo sư kiêm nhiệm cao gấp 2 lần giáo sư giảng dạy, và tôi xem đây là một điều bất bình thường, không hợp lí. Hình như có một sự nhầm lẫn về giáo sư kiêm nhiệm và giáo sư giảng dạy.
Ở nước ngoài, các đại học có 2 thành phần giáo sư mà (tùy theo trường) họ gọi là “academic professor” và “conjoint professor”. Academic professor là những giáo sư thuộc biên chế chính thức của đại học, họ nghiên cứu và giảng dạy trong đại học, và họ hưởng lương từ trường đại học. Đây có lẽ là “giáo sư giảng dạy” theo qui định của Hội đồng chức danh. Chức danh “conjoint professor” thường được áp dụng cho những chuyên gia hay nhà khoa học thuộc các trung tâm nghiên cứu, bệnh viện, thậm chí công ty kĩ nghệ tư nhân có quan hệ mật thiết với trường đại học (như nhận sinh viên thực tập, hay có đóng góp cho các chương trình đào tạo của trường đại học). Những conjoint professor không thuộc biên chế của trường đại học, tức không nhận lương bổng từ trường đại học. Đây có lẽ là những “giáo sư kiêm nhiệm” theo qui định của Hội đồng chức danh.
GS. Ngô Như Bình tại Đại học Harvard
Xét duyệt đề bạt chức danh GS/PGS |
Vì là kiêm nhiệm, cho nên tiêu chuẩn để được đề bạt chức danh conjoint professor thường thấp hơn tiêu chuẩn cho một giáo sư khoa bảng. Chẳng hạn như nếu một academic professor (giáo sư khoa bảng) cần phải có 50 bài báo khoa học để được đề bạt, thì giáo sư kiêm nhiệm chỉ cần 25 bài. Nhưng ở Việt Nam tiêu chuẩn này ngược lại: giáo sư kiêm nhiệm có tiêu chuẩn cao hơn giáo sư giảng dạy! Tôi nghĩ cần phải xem xét lại tiêu chuẩn này.
Số người bình duyệt đơn đề bạt. Theo qui định mới, một hồ sơ đề bạt sẽ được duyệt xét bởi 3 người (thay vì 2 như trước đây). Theo tôi, chỉ 3 người duyệt hồ sơ vẫn chưa đủ. Duyệt đơn đề bạt của một cá nhân rất quan trọng vì quyết định có ảnh hưởng đến sự nghiệp của ứng viên, cho nên cần phải có nhiều ý kiến. Ở nước ngoài, các đại học thường cần đến 7 hay 8 chuyên gia bình duyệt độc lập, trong số này có ít nhất là 2 người từ nước ngoài.
Vài đề nghị
Tôi thấy những tiêu chí và tiêu chuẩn mới công bố rất máy móc, tính toán theo kiểu “cân đo đong đếm”. Ngoài ra, tiêu chuẩn tiếng Anh có thể cần thiết nhưng tôi thấy khá mù mờ, vì rất khó định nghĩa được thế nào là “có khả năng giao tiếp”. Vì vậy tôi đề nghị một số điều sau đây:
Phân chia ngạch đề bạt. Ở nước ta có nhiều người mà nhiệm vụ chính là giảng dạy, và xét phong giáo sư cho những người này không nên đặt nặng vào những tiêu chí liên quan đến nghiên cứu khoa học. Do đó, cần phải có những tiêu chuẩn cho những người chuyên về giảng dạy, nghiên cứu, và thậm chí phục vụ. Thật vậy, có người tuy không giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhưng có thành tích trong việc phục vụ và quản lí, thì Hội đồng chức danh cũng nên có cơ chế để công nhận đóng góp của họ.
Không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu cân đo đong đếm. Những chỉ số Z mà tôi đề nghị cũng chỉ mang tính tham khảo hơn là dựa vào đó để đánh giá cao thấp, bởi vì đánh giá như thế đòi hỏi nhiều khía cạnh khác chứ không phải chỉ công bố quốc tế. Trái với các tiêu chuẩn trong nước về đề bạt chức danh khoa bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài người ta không có những điểm cụ thể, mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất. Về lượng, họ xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên. Họ không đề ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt. Những chỉ số chỉ mang tính tham khảo, vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ chức mời và chi trả.
Vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review). Ở một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín, nhiều trường ở Úc và Mỹ, người ta sử dụng hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm. Triết lí đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng viên. Một số đơn mà người viết bài này bình duyệt, hội đồng chức danh yêu cầu ứng viên tự chỉ ra trong đơn là họ tương đương với ai trên thế giới. Ngoài ra, hội đồng chức danh còn yêu cầu người bình duyệt chỉ ra thành tựu của ứng viên có thể xếp vào loại nào và tương đương với ai trên thế giới. Nói tóm lại, việc để cho đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo tính khách quan trong quá trình đề bạt.
Tính minh bạch. Tất cả các chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên Internet. Ngoài ra, danh sách những người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu cần được công bố cho ứng viên biết trước. Thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học, trong và ngoài đại học, v.v…Tính minh bạch còn thể hiện qua qui định ứng viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp. Ngoài ra, phải có cơ chế để ứng viên “khiếu nại” nếu đơn xin đề bạt không thành công.
Cố nhiên, tình hình thực tế ở nước ta không thể ứng dụng các tiêu chuẩn Âu Mỹ để đề bạt giáo sư, nhưng tôi nghĩ có thể dựa vào các tiêu chí quốc tế như là một bước đầu trong quá trình hội nhập quốc tế.