Kiến trúc với kiến tạo quốc gia
Từ xưa đến nay, các quốc gia luôn tìm cách thể hiện quyền lực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, quân sự… trong thời đại của nó. Một trong những cách quan trọng nhất là xây dựng những công trình kiến trúc mang tính biểu tượng.
Khi đó, kiến trúc có thể gánh vác trách nhiệm để góp phần đại diện cho lý tưởng, tham vọng của quốc gia. Kiến trúc sư bậc thầy Mies van der Rohe (1886 – 1969) từng nói: “Kiến trúc là ý chí của một thời đại được truyền tải vào không gian”. Điều này có thể được nhìn thấy trong các công trình dễ tiếp cận, mang tính biểu tượng như cung điện, công trình tôn giáo, nhà quốc hội, thư viện quốc gia, bảo tàng, tháp cao tầng… Khi nhắc đến La Mã chúng ta sẽ nghĩ đến ngay đấu trường Coliseum; hoặc khi nhắc đến Paris thì hình ảnh tháp Eiffel sẽ ngay lập tức xuất hiện. Giới tinh hoa luôn tìm kiếm những hình thức biểu tượng để đại diện cho quốc gia. Còn quần chúng thì phấn đấu để phẩm giá và bản sắc của cộng đồng mình được khẳng định (theo Francis Fukuyama). Nói cách khác, kiến trúc góp phần quan trọng trong quá trình kiến tạo bản sắc quốc gia, dân tộc.
Nhiều người trong chúng ta cảm thấy khó hiểu khi đất nước Qatar có diện tích và dân số nhỏ như một tỉnh thành của Việt Nam lại sẵn sàng bỏ ra số tiền khổng lồ để xây dựng những công trình kiến trúc đương đại ấn tượng, cũng như chi hàng trăm tỷ USD để tổ chức World cup 2022, trong đó chủ yếu là xây dựng sân vận động và hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Họ hoàn toàn có lý khi làm như vậy ở góc nhìn kiến tạo quốc gia.
Mỗi quốc gia, dân tộc luôn phải đối mặt với hoàn cảnh và biến cố xã hội ở thời điểm hiện tại trong không gian tương tác với các cộng đồng khác nên nó phải lựa chọn cách định vị “căn cước” của cộng đồng mình như thế nào để tồn tại và phát triển. Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18, Piotr Đại đế nhận ra sự tụt hậu của Nga so với các nước phương Tây, ông đã đưa ra chủ trương học hỏi và kết nối với phương Tây. Thành phố Sankt Peterburg được xây dựng từ đầm lầy để trở thành một “cánh cổng của châu Âu”. Piotr mời những kiến trúc sư giỏi nhất của châu Âu đến Sankt Peterburg để tạo ra những công trình biểu tượng mới của một nước Nga thuộc về châu Âu. Ngày nay, khi cảm thấy không thể hòa hợp được với phương Tây, giới tinh hoa Nga đang định vị nước mình là một quốc gia Á-Âu (còn bản thân các dân tộc trong nước Nga đã được hòa trộn các dòng máu Á- Âu từ lâu rồi), và nghệ thuật- kiến trúc Nga đang từng bước thay đổi theo định hướng giao thoa văn hóa Á-Âu.
Kiến tạo từ trên xuống: Ý chí chính trị
Trong tiến trình phát triển kiến trúc của mỗi quốc gia, có những thời điểm bản lề, bắt buộc nền kiến trúc ấy phải kiến tạo những “câu chuyện” mới, nếu không muốn rơi vào tình trạng sáo mòn, suy kiệt. Khi một guồng máy đang chạy theo quán tính của nó, thì sự bẻ lái phụ thuộc rất lớn từ ý chí chính trị của nhân vật, giai cấp lãnh đạo.
Năm 1852-1870, Napoleon III giao trọng trách cho Georges Eugene Haussmann tiến hành cuộc đại cải tạo Paris từ một thành phố hậu – trung cổ trở thành một hình mẫu đô thị tiền – hiện đại, với những đại lộ, công viên lớn, quảng trường thoáng đãng, hạ tầng kỹ thuật tiên tiến, tạo tiền đề cho sự xuất hiện những kiệt tác kiến trúc mới sau đó không lâu như tháp Eiffel. Dự án vấp phải làn sóng phản đối từ phía người dân lẫn các nhóm lợi ích. Nhưng Haussmann, với sự ủng hộ tuyệt đối từ hoàng đế cũng như các kiến trúc sư cộng sự, đã quyết liệt phá hủy 20.000 ngôi nhà để xây mới gấp đôi số đó, cũng như mở rộng thêm tám quận và làm những con đường rộng 30m (lúc đó đường rộng 13m đã là được coi là to). Thành công của Đại dự án Haussmann cho thấy sự quyết đoán của lãnh tụ (Napoleon III) rất quan trọng khi kiến tạo những tự sự mới.
Ở Liên Xô, sau khi đã loại bỏ các đối thủ chính trị và nắm chắc quyền lực tối cao, Stalin đã chỉ đạo kiến thiết một nền nghệ thuật khác với người tiền nhiệm. Những nghệ sĩ tiên phong lúc trước như Malevich, Eisenstein, Melnikov bị phê phán là theo chủ nghĩa hình thức và cho “ra rìa”. Thay vào đó, Stalin ủng hộ những nghệ sĩ khác có mỹ học tương thích với quan điểm chính trị của ông như Deyneka, Aleksandrov, Iofan. Nghệ thuật Liên Xô (đặc biệt kiến trúc) thời kỳ Stalin là một ví dụ tuyệt vời để chứng tỏ vai trò chính trị quan trọng thế nào trong việc tự sự nền nghệ thuật quốc gia. Bằng quyền lực của mình, Stalin đã tạo ra một phong cách kiến trúc khuynh loát toàn liên bang và lan tỏa ra các nước thuộc khối XHCN, cả ở Đông Âu lẫn châu Á. Nó hướng tới tính đăng đối, chiết trung, hòa trộn kiến trúc cổ điển với art-deco; kết hợp kiến trúc với điêu khắc, hội họa. Chi tiết trang trí dễ nhận biết của nó là cách sử dụng thức cột, phù điêu với hình ảnh huy hiệu, ngôi sao, băng đô, hoa, vũ khí, hình người. Dù có ý kiến cho rằng kiến trúc Stalin không sáng tạo, tiến bộ như thời Lenin, nhưng không thể phủ nhận nó có cá tính mạnh, sang trọng, dễ tiếp nhận đối với nhân dân lao động.
Sự kiện Khruschev “xét lại” Stalin khiến Bắc Kinh không hài lòng, coi đó như một sự “phản bội”. Mao Trạch Đông, một người rất ngưỡng mộ Stalin, cảm thấy cần phải tự chọn con đường riêng của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa cộng sản, bằng cách tiến hành Đại nhảy vọt. Năm 1958, lãnh tụ Trung Quốc yêu cầu xây dựng “thập đại kiến trúc” ở Bắc Kinh, bao gồm 10 công trình lớn như Đại lễ đường Nhân dân, Bảo tàng Quốc gia, Cung văn hóa Dân tộc, Nhà ga Bắc Kinh… trở thành biểu tượng của đất nước Trung Quốc thời đại mới. Tuy cuộc Đại nhảy vọt trong kinh tế thất bại, nhưng những công trình kiến trúc “đại diện” cho nó lại thành công. Đại lễ đường Nhân dân ngày nay vẫn là biểu tượng cho khát vọng và sức mạnh của Trung Quốc. “Thập đại kiến trúc” có thể coi như phiên bản kiến trúc Stalin ở Trung Quốc, được thể hiện ở tính chiết trung giữa hình thức truyền thống với hiện đại, sự chú ý đến những chi tiết trang trí theo kiểu art- deco, quy mô, tầm vóc lớn.
Ở Việt Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta vẫn sử dụng nhiều công trình thời Pháp thuộc làm trụ sở các cơ quan hành chính quan trọng như Phủ Chủ tịch (Dinh Toàn quyền cũ), Trụ sở Bộ Ngoại giao (Sở Tài chính Đông Dương cũ). Có thể coi đó là hiện tượng “chiếm hữu biểu tượng”, một việc làm bất đắc dĩ (vì còn nghèo) và nhân văn (tôn trọng tác phẩm nghệ thuật của chế độ cũ). Phải đến đầu những năm 1960, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới có điều kiện kiến tạo những biểu tượng kiến trúc của riêng mình trên cơ sở tham khảo các nước XHCN anh em và tận dụng một số tiến bộ từ thời kỳ trước. Đó là những công trình: Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (1960), Tổng cục Thống kê (1960), Bảo tàng Việt Bắc (1963), Hội trường Ba Đình (1962)… Chúng chính là những biểu tượng đầu tiên của nước Việt Nam mới: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Kiến tạo từ dưới lên: Tự sự cộng đồng
Tự sự cộng đồng là cách thức một cộng đồng bày tỏ mình theo chiều kích không gian và thời gian, trong sự tổng hợp các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hóa, con người… nhằm giải đáp các câu hỏi về sự tồn tại, vận hành, hình thành, triển vọng, ước mơ của cộng đồng.
Về mặt bản chất (quy chất), cộng đồng sinh sống ở một khu vực địa lý, khí hậu đặc trưng, di truyền các mã văn hóa- nhân học qua nhiều thế hệ như một phản ứng chọn lọc tự nhiên. Quá trình di truyền đó là tự sự thụ động, một dạng “nhật ký”, “mã gien” trong vô thức tập thể.
Về mặt kiến tạo, cộng đồng luôn phải đối mặt với hoàn cảnh và biến cố xã hội ở thời điểm hiện tại trong không gian tương tác với các cộng đồng khác nên nó phải lựa chọn cách định vị “căn cước” của cộng đồng mình như thế nào để phát triển bền vững, không bị thoái hóa, tự hủy. Việc định vị, “giới thiệu” bản thân là tự sự chủ động. Khi đã định vị được mình, cộng đồng và các thành viên của nó sẽ có thêm sự tự tin để bảo vệ, sáng tạo nền nghệ thuật mới. Cũng như họa sĩ Nguyễn Sáng, sau khi cùng nhân dân trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm đã tự nhận ra sự thay đổi trong nghệ thuật của mình bằng câu nói: “Cách mạng đã sinh ra tôi lần thứ hai”.
Khi một quốc gia định hình được nội dung tự sự cộng đồng một cách thuyết phục, các nghệ sĩ sẽ có được “tâm thế chính trị” để tự tin sáng tạo. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, ngoại trừ những người lựa chọn di cư sang nước ngoài, giới văn nghệ Nga phấn chấn, cùng nhau hướng tới tương lai tốt đẹp cho đất nước đang bị trì trệ bởi hệ thống quan liêu và chiến tranh. Phong trào Kiến tạo (constructivism) xuất hiện trong hoàn cảnh đó.
Khi một quốc gia định hình được nội dung tự sự cộng đồng một cách thuyết phục, các nghệ sĩ sẽ có được “tâm thế chính trị” để tự tin sáng tạo.
Các họa sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ tiến bước cùng nhân dân lao động, hừng hực khí thế xây dựng một nền nghệ thuật mới, đoạn tuyệt với chủ nghĩa kinh viện thời kỳ đế chế. Trong suốt những năm 1920, những nghệ sĩ theo chủ nghĩa Kiến tạo đã thay đổi hoàn toàn quan niệm về kiến trúc, thiết kế đồ họa, phim ảnh. Họ cổ vũ áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong nghệ thuật, sử dụng các bố cục trừu tượng, gắn nghệ thuật với thời đại, phục vụ những nhu cầu mới của xã hội qua việc sử dụng thép, bê tông hay thiết kế những khu nhà tập thể đa chức năng… Điều đó cũng phù hợp với quan điểm của Lenin khi chuyển đổi kinh tế Nga từ một nước nông nghiệp sang công nghiệp. Chúng ta có thể hình dung trong con mắt những nghệ sĩ Nga lúc đó, việc xây dựng chính quyền Xô viết là một dự án nghệ thuật quy mô lớn.
Sau Thế chiến II, khi Liên Xô dẫn dắt khối xã hội chủ nghĩa, dù giới văn nghệ chịu cảnh kiểm duyệt gắt gao, nhưng các nghệ sĩ vẫn có thể cho ra đời những tác phẩm đỉnh cao, khác với niềm tin thiếu căn cứ ở một số nơi hiện nay rằng chỉ có “tự do” mới tạo ra kiệt tác!? Ở trường hợp Liên Xô, chúng ta có thể lý giải rằng, nền tảng văn hóa dân tộc, vị thế quốc gia, tâm thế chính trị của nghệ sĩ mới là những yếu tố quan trọng để tạo nên những tác phẩm đỉnh cao. Khi Liên Xô dẫn dắt một nửa thế giới, thì tâm thế chính trị và trách nhiệm của các nghệ sĩ khác hẳn so với khi họ là công dân của những quốc gia tan đàn xẻ nghé, thiếu chủ thuyết xã hội. Dù giới văn nghệ các nước hậu Xô viết có vẻ được hưởng bầu không khí tự do hơn, nhưng đến nay sau hơn 30 năm phân ly độc lập, vẫn chưa thấy xuất hiện những kiệt tác lớn như thời Liên Xô. Rõ ràng, sức mạnh tự sự cộng đồng có khả năng kích thích tiềm năng sáng tạo của người nghệ sĩ.
Nền tảng văn hóa dân tộc, vị thế quốc gia, tâm thế chính trị của nghệ sĩ mới là những yếu tố quan trọng để tạo nên những tác phẩm đỉnh cao
Ở chiều ngược lại, chính những thành công đột phá trong nghệ thuật đã tạo thiện cảm của giới trí thức, văn nghệ quốc tế đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ. Các kiến trúc sư hàng đầu thế giới những năm 1920-1930 như Le Corbusier, Frank Lloyd Wright đều ngưỡng mộ và ủng hộ các công trình kiến trúc Kiến tạo, thậm chí cả Hiện thực xã hội chủ nghĩa nữa. F.L. Wright viết trong tự truyện của mình rằng: “Choáng ngợp vì sức sống, sự mạnh mẽ, chủ nghĩa anh hùng và độ giàu có trong biểu đạt, ngưỡng mộ tính cá nhân đầy màu sắc, chưa bao giờ biết đến bí mật của niềm hạnh phúc như thế. Nước Nga có thể mang lại cho đám đông cãi cọ của những loại người già nua đầu óc sặc mùi tiền và chiến tranh của thế giới phương Tây phần tâm hồn đã bị vùi lấp, và tôi hy vọng, kịp thời xuất hiện để ngăn chặn sự tự diệt vong mà các quốc gia đang cùng nhau lao tới”.
Ở Việt Nam thời bao cấp, bên cạnh ý chí chính trị của những người lãnh đạo, sự giúp đỡ của các nước XHCN, thì sự đồng tâm hiệp lực của cộng đồng và giới kiến trúc sư đã tạo nên một giai đoạn kiến trúc Việt Nam có căn tính rõ ràng. Dù dồn hết nguồn lực để chi viện cho mặt trận miền Nam, sau đó là khủng hoảng kinh tế bởi cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, người Việt Nam vẫn có thể xây dựng được những công trình có thẩm mỹ mới mẻ, tiến bộ, nhân văn, phục vụ quần chúng nhân dân lao động.
Có cần lý tưởng cho các đô thị?
Các đô thị nước ta hiện nay đang ở thời điểm phát triển rất nhanh, nhưng chưa có những tự sự mới hấp dẫn, mạnh mẽ. Điều đó dẫn đến tình trạng nhà nước cứ phải “đuổi theo” các dự án bất động sản của những tập đoàn lớn để điều chỉnh quy hoạch. Trong khung cảnh có phần “lủng củng” đó, chúng ta phải nhấn mạnh và khẳng định vai trò chỉ huy, kiến tạo của nhà nước trong quy hoạch, thiết kế đô thị, kiến trúc, nhất là khi các tập đoàn tư nhân đang cho thấy họ chỉ nghĩ đến quyền lợi mà ít có trách nhiệm đối với xã hội.
Chúng ta hiện đang có rất nhiều những công trình lớn được đầu tư bởi nhà nước và tư nhân nhưng không đưa ra được “đầu bài” mang tính tự sự cộng đồng, vậy nên kết quả của nó là những công trình kiến trúc “giông giống” ở nhiều “thành phố đại trà” khác trên thế giới. Có lẽ, ngay bây giờ chúng ta cần lựa chọn và xây dựng một tự sự cộng đồng mới mẻ, có khả năng khơi gợi sáng tạo để lan tỏa vào những dự án, những cuộc thi tuyển kiến trúc?
Lý tưởng – một khái niệm có thể khiến nhiều người Việt Nam “dị ứng” và “đề phòng”, nhưng lại chính là thứ quan trọng còn thiếu trong quy hoạch, thiết kế, xây dựng, quản lý các đô thị lớn nước ta hiện nay.
Lý tưởng – một khái niệm có thể khiến nhiều người Việt Nam “dị ứng” và “đề phòng”, nhưng lại chính là thứ quan trọng còn thiếu trong quy hoạch, thiết kế, xây dựng, quản lý các đô thị lớn nước ta hiện nay.
Những thành phố – ý nói những thành phố vĩ đại – được xây bằng gì? Chúng được xây bằng lý tưởng.
Lý tưởng của La Mã sẽ tạo nên đô thị La Mã, và “mọi con đường đều dẫn đến thành Roma”. Sau khi La Mã bị phá hủy, Constantinopol (La Mã thứ hai) thất thủ, các Sa hoàng Nga muốn Moskva trở thành La Mã thứ ba và sẽ không có La Mã thứ tư nữa. Từ đầu thế kỷ 19, người ta gọi Paris là “kinh đô ánh sáng” để khẳng định nó là trung tâm văn hóa, tri thức của thế giới.
Vậy lý tưởng của Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ… là gì? Chỉ khi trả lời được câu hỏi đó, người ta mới tin tưởng vào hành động của mình. Không có lý tưởng, mọi hành động sẽ chìm đắm trong vòng luẩn quẩn tranh cãi bất định.
Kiến trúc Việt Nam trong một Đông Nam Á năng động và chủ động
Với vị trí địa lý nằm ở vùng biên phía Nam của văn hóa Trung Quốc, lại từng là thuộc địa một nghìn năm, nước Đại Việt xưa đã xây dựng nền văn nghệ của mình theo hướng Hoa tâm luận (đôi khi còn tự nhận mình là Hán nhân!). Triết học, văn chương đều lấy Trung Quốc làm chuẩn mực, làng nghề kỹ nghệ chủ yếu được khởi phát sau khi có người đi sứ từ phương Bắc về. Người Việt Nam xưa nhận mình là người phương Nam, bởi lấy Trung Quốc ở phương Bắc để đối chiếu.
Đến thời Pháp thuộc, Việt Nam nằm trong xứ Đông Dương thuộc Pháp. Với cách định vị địa lý như vậy, tư tưởng “dĩ Âu vi trung” (eurocentrism) trong kiến trúc nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung nảy nở và kéo dài dai dẳng đến ngày hôm nay. Bên cạnh đó, kiến trúc Champa trở thành một phần quan trọng của kiến trúc Việt Nam. Những nghiên cứu về kiến trúc Champa bắt đầu xuất hiện từ thời Pháp thuộc. Do thay đổi nhận thức về kiến trúc nước mình, vua Khải Định đã cho kết hợp nhiều mô-típ kiến trúc Champa vào trong công trình lăng của ông. Ngày nay, trong hầu hết các diễn ngôn chính trị, kiến trúc Champa đã trở thành di sản kiến trúc Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam định vị mình là một quốc gia Đông Nam Á. Điều này sẽ mở ra một chương mới trong việc kiến tạo văn học nghệ thuật nước ta. Đông Nam Á tâm luận (Aseancentrism) là cơ hội cho các nghệ sĩ Việt Nam cũng như của tất cả các quốc gia khác trong khu vực, bởi nó là một vùng đất màu mỡ đang chờ canh tác.
Tuy có khác biệt, nhưng các quốc gia Đông Nam Á vẫn còn nhiều cơ sở chung để cùng nhau kiến tạo căn cước, có thể kể đến: địa lý (sông, biển), khí hậu (nhiệt đới), nhân khẩu (bản địa Đông Nam Á và hậu duệ di cư từ Nam Trung Hoa), xã hội (hậu thuộc địa), nền tảng tư tưởng (kết hợp Ấn Độ, Trung Quốc, phương Tây), kinh tế (đang tăng trưởng mạnh), văn hóa (đa dạng).
Trong thời gian qua, Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã có nhiều hoạt động tăng cường kết nối với các nước ASEAN như hỗ trợ các kiến trúc sư trong nước được công nhận là kiến trúc sư ASEAN, đạt chứng chỉ hành nghề kiến trúc ASEAN, mời các kiến trúc sư ASEAN tham gia đào tạo phát triển nghề nghiệp liên tục (CPD)…
Cũng giống như ở Việt Nam, xu hướng kiến trúc xanh – bền vững, kiến trúc phê bình địa phương, sự tìm kiếm bản sắc trong thời đại toàn cầu hóa, đang thôi thúc các kiến trúc sư ở các quốc gia Đông Nam Á. Sự đồng điệu giữa kiến trúc Việt Nam với các nước ASEAN ngày càng thể hiện rõ hơn. Điều đó chứng tỏ Đông Nam Á tâm luận là một trong những cách định vị kiến trúc nước ta phù hợp. □