Nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng?

Một chủ đề hay được nhắc đến khi luận bàn về chính sách phát triển khoa học là sự phân biệt giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Bài viết này nhằm góp phần nhìn nhận sự phân biệt đó trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.

Trước hết, tôi xin nêu lại những nhận định chung thường được đưa ra tranh luận và được sự tán đồng rộng rãi của phần đông các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách.
Điều đầu tiên được sự đồng tình là không nên đối lập nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản mà thậm chí phân biệt thứ bậc giữa chúng cũng là điều không nên. Bất kỳ ai biết và yêu khoa học đều hiểu rằng khoa học được tạo nên bởi nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản; lý thuyết; quan sát và thí nghiệm; chúng có quan hệ tương hỗ và cần có nhau để phát triển. Bất kỳ ai biết và yêu khoa học đều hiểu rằng sự đa dạng của khoa học là một trong những giá trị chính của nó. Phân biệt thứ bậc giữa các ngành khác nhau, như những nhà nhận thức luận đang làm, không những vô ích mà còn rất nguy hiểm. Phân biệt giữa khoa học tốt và tồi không phải ở chủ đề mà ở chất lượng nghiên cứu, năng lực, sự nghiêm túc, kỹ năng và sự sáng tạo của nhà khoa học hoặc một nhóm các nhà khoa học. Dĩ nhiên, một nhà khoa học giỏi sẽ chọn đề tài nghiên cứu dựa vào tầm quan trọng của đề tài và cơ hội thành công của mình. Điều này đúng cho một nhà lý thuyết giỏi cũng như một nhà thực nghiệm giỏi; đúng cho nghiên cứu cơ bản cũng như nghiên cứu ứng dụng. Khi Penzias và Wilson phát hiện bức xạ phông nền vũ trụ, họ đang chỉnh ăng-ten tại Bell Telephone để liên lạc với vệ tinh; khi Anderson phát hiện hạt positron, ông cũng đang điều chỉnh buồng hơi  cho Millikan. Có rất nhiều ví dụ như vậy trong tất cả các lĩnh vực khác nhau. Thực ra, sự khác biệt giữa ứng dụng và cơ bản, giữa lý thuyết và thực nghiệm chỉ mới xuất hiện gần đây và đó là hệ quả đáng tiếc khi một số ngành khoa học trở nên quá phức tạp; chúng ta không nên bị huyễn hoặc bởi sự khác biệt này.

Thực ra, sự khác biệt giữa ứng dụng và cơ bản, giữa lý thuyết và thực nghiệm chỉ mới xuất hiện gần đây và đó là hệ quả đáng tiếc khi một số ngành khoa học trở nên quá phức tạp; chúng ta không nên bị huyễn hoặc  bởi sự khác biệt này.

Ở đây, tôi không cần nhắc lại những luận điểm mà các nhà khoa học vẫn thường lặp đi lặp lại với một số nhà quản lý vốn chỉ ủng hộ nghiên cứu cơ bản một cách miễn cưỡng. Một trong những điển hình nhất trong số đó là câu trả lời của Faraday tới Bộ trưởng Tài chính khi ông này hỏi về giá trị thực tế của điện: “Thưa ngài, đến một lúc nào đó ngài sẽ có thể đánh thuế nó.” Hoặc câu chuyện vui rằng điện đã có thể không bao giờ được phát minh nếu người ta chỉ lo việc cải tiến những ngọn nến. Tuy nhiên, điều quan trọng là, những luận điểm này rất rõ ràng và có giá trị phổ quát, nhưng chúng lại có thể không áp dụng được vào một cộng đồng nhất định, chẳng hạn như các nước đang phát triển. Một Bộ, nhà quản lý khoa học Việt Nam nào đó có thể nói rằng: “Tôi hoàn toàn nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu cơ bản nhưng nó đang được tiến hành ở các nước phát triển; Việt Nam đang phát triển rất nhanh nhưng nguồn nhân lực của đất nước thì có hạn; điều quan trọng đối với chúng ta bây giờ là phát triển nghiên cứu ứng dụng để có thể đào tạo được nhiều kỹ sư và thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp; ở bất kỳ khía cạnh nào, chúng ta đều không thể cạnh tranh được với các nước phát triển về nghiên cứu cơ bản; hãy tạm thời quên nó đi và tập trung vào ứng dụng”.

Hàng loạt các ứng dụng thực tế đều bắt nguồn từ nghiên cứu cơ bản và rất nhiều, có thể hầu hết, nghiên cứu ứng dụng đều xuất phát từ những phát minh mà mục đích ban đầu không phải là tìm các ứng dụng khả dĩ trước mắt.

Nếu thế, câu hỏi sẽ không còn là “Tại sao chúng ta phải làm nghiên cứu cơ bản?” mà sẽ là “Tại sao Việt Nam phải  làm nghiên cứu cơ bản và nếu phải làm thì tỉ lệ nguồn tài lực phải đổ vào đấy là bao nhiêu và phải chọn hướng nghiên cứu nào?”
Tôi không có câu trả lời hoàn hảo cho những câu hỏi này, nhưng chúng ta hãy thử góp nhặt một vài ý trả lời cho những câu hỏi đó.
Một luận cứ rõ ràng và có sức thuyết phục, có thể là duy nhất: Hai nhà khoa học Penzias và Wilson được đề cập ở trên, một người được đào tạo tại Đại học Columbia và người còn lại tại Caltech, hai trong số các trường đại học uy tín nhất trên thế giới. Ở đó họ được hưởng thụ môi trường khoa học chất lượng rất cao như là trường học của kỉ luật, cần cù và tôi dám nói là trường học của đạo đức. Ở đó, họ được làm việc với những nhà khoa học hàng đầu, những người truyền niềm đam mê khoa học cho họ. Ở đó, lần đầu tiên trong đời, họ bắt đầu hiểu khoa học thực sự là gì.
Các trường đại học và các phòng thí nghiệm Việt Nam vẫn còn đang phải hứng chịu những hậu quả sau nhiều năm chiến tranh. Chúng ta bị mất gần ba thế hệ giảng viên và các nhà khoa học. Chúng ta phải mất hàng thập kỷ để gây dựng lại những gì đã bị tàn phá bởi chiến tranh, đặc biệt trong trường hợp các trường đại học và phòng thí nghiệm nơi cần bắt đầu bằng việc đào tạo một thế hệ giảng viên mới trước khi đào tạo những thế hệ sinh viên mới. Tuy nhiên, các nước đang phát triển phải dành ưu tiên cao nhất để tạo dựng nên một môi trường tốt tại các trường đại học và các phòng thí nghiệm làm nền tảng cho các tài năng đua nở và lôi kéo họ ở lại làm việc trong nước.
Đó là một nhiệm vụ khó khăn và cấp thiết; để làm được điều đó đòi hỏi nhiều hơn điều đơn giản là ra nghị quyết. Không có chiếc đũa thần nào có thể biến các trường đại học Việt Nam sau một đêm thành các đại học đẳng cấp quốc tế như người ta biến những quả bí ngô thành những chiếc xe tuấn mã. Không có công thức thần kỳ nào cả. Tuy nhiên, có thể xác định một vài yếu tố cần thiết cho công thức đó ví dụ như bắt đầu bằng việc hình thành một vài trung tâm chất lượng cao, giao phó trọng trách cho những tiến sỹ trẻ xuất sắc, lôi kéo những nhà khoa học thành công, phù hợp với yêu cầu chuyên môn, ở nước ngoài về nước làm việc, thành lập những  hội đồng khoa học trong đó có các thành viên nước ngoài có uy tín quốc tế tư vấn, đảm bảo thực hiện chính sách tuyển dụng nghiêm ngặt, chặt chẽ, tăng lương đủ để đảm bảo cho đội ngũ công chức không bị phân tâm bởi công việc ngoài giờ, vân vân …. Trong danh sách này, tôi muốn thêm vào ngoài những điều trên: phải tạo không gian cho nghiên cứu cơ bản.

Tại sao lại phải làm vậy?
Đầu tiên, hãy nghĩ về một sinh viên tài năng có quyết tâm cống hiến cuộc đời cho khoa học. Anh ta sẽ luôn bị hấp dẫn bởi những vấn đề lớn thuộc tuyến đầu của tri thức. Những vấn đề đó có thể gần với các ứng dụng có tiềm năng, như trong các lĩnh vực công nghệ nano, khoa học môi trường và hầu hết các ngành khoa học về sự sống, nhưng cũng có thể dường như khá xa với những ứng dụng trước mắt như trường hợp của vật lý thiên văn hoặc vật lý các hạt cơ bản . Đóng cửa đối với sự quan tâm tìm hiểu biết của anh ta với lý do rằng mối quan tâm đó thuộc lĩnh vực không có ứng dụng hiển nhiên chẳng khác nào buộc sinh viên đó phải rời bỏ đất nước, đấy là một tổn thất lớn cho Việt Nam. Đấy là chưa nói rằng hàng loạt các ứng dụng thực tế đều bắt nguồn từ nghiên cứu cơ bản và rất nhiều, có thể hầu hết, nghiên cứu ứng dụng đều xuất phát từ những phát minh mà mục đích ban đầu không phải là tìm các ứng dụng khả dĩ trước mắt.

Không có chiếc đũa thần nào có thể biến các trường đại học Việt Nam sau một đêm thành các đại học đẳng cấp quốc tế như người ta biến những quả bí ngô thành những chiếc xe tuấn mã. Không có công thức thần kỳ nào cả. Tuy nhiên, có thể xác định một vài yếu tố cần thiết cho công thức đó ví dụ như bắt đầu bằng việc hình thành một vài trung tâm chất lượng cao, giao phó trọng trách cho những tiến sỹ trẻ xuất sắc, lôi kéo những nhà khoa học thành công, phù hợp với yêu cầu chuyên môn, ở nước ngoài về nước làm việc, thành lập những  hội đồng khoa học trong đó có các thành viên nước ngoài có uy tín quốc tế tư vấn, đảm bảo thực hiện chính sách tuyển dụng nghiêm ngặt, chặt chẽ, tăng lương đủ để đảm bảo cho đội ngũ công chức không bị phân tâm bởi công việc ngoài giờ, vân vân…. Trong danh sách này, tôi muốn thêm vào ngoài những điều trên: phải tạo không gian cho nghiên cứu cơ bản.

Thứ hai, một trường đại học tốt nên có một vài nhà khoa học trình độ quốc tế – ít nhất một người trong một khoa – có khả năng dạy sinh viên những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực của họ cũng như đào tạo những sinh viên này lên trình độ cao hơn. Hầu hết các ngành liên quan đến nền tảng của khoa học hiện đại như vật lý lượng tử, thuyết tương đối, sinh học phân tử, vân vân… không được giảng dạy vì các ứng dụng của nó mà vì những giá trị tự thân của chúng. Các kỹ thuật viên có thể bỏ qua những môn này. Nhưng các nhà khoa học và kỹ sư, bất kể làm gì trong một lĩnh vực có hoặc không có ứng dụng hiển nhiên, phải làm chủ được chúng nếu muốn thành công. Một lần nữa, chúng ta không nên nghĩ đến khía cạnh cơ bản hay ứng dụng mà đơn giản là phải nghĩ đến chất lượng. Đóng cửa với nghiên cứu cơ bản sẽ làm các trường đại học Việt Nam mất nhiều giáo sư và nhà khoa học xuất sắc.
Cách tiếp cận này nghe có vẻ như chỉ dành riêng cho một nhóm người. Tuy nhiên không phải thế. Đây là một tiếp cận thực tế: trong khi  chúng ta có khả năng thành lập một vài trung tâm chất lượng cao, thì chúng ta không thể nào nâng toàn bộ hệ thống đại học của Việt Nam lên tầm cỡ quốc tế trong một lúc. Tuy nhiên các Đại học của Việt Nam có thể hưởng lợi từ sự tồn tại của những trung tâm chất lượng cao này, thành công của  những trung tâm này sẽ lan tỏa đến các trường và đóng vai trò như những hạt nhân cho những bước phát triển sâu rộng hơn.

Dự án quốc tế Pierre Auger nghiên cứu về tia vũ trụ hiện có hơn 370 nhà khoa học và kỹ sư tham gia. Việt Nam là nước thành viên châu Á duy nhất của Dự án này (với Nhóm Vật lý tia vũ trụ thuộc Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân – Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam – Bộ Khoa học và Công nghệ). Cách đây gần một năm, Dự án này đã thông báo một phát hiện mới về các tia năng lượng cao trong vũ trụ. Mới đây, các nhà khoa học của Dự án lại lý giải được “câu đố về hiệu ứng GZK”. Đó là những thành tích đáng nể của các nhà khoa học tham gia Dự án, và họ có quyền nghĩ về một phần thưởng xứng đáng cho công sức đã bỏ ra.

Tất cả những điều tôi đang nói là một chính sách khoa học hợp lý phải tạo không gian cho nghiên cứu cơ bản hoặc, có thể nói là, cho nghiên cứu không có ứng dụng hiển nhiên trước mắt… Chính sách đó phải lựa chọn được các đề tài và các nhà khoa học dựa trên nền tảng chất lượng. Chính sách đó cũng phải cung cấp cho họ đủ nguồn tài chính, nhớ rằng một nhà khoa học làm việc trong một lĩnh vực không có ứng dụng rõ ràng gần như không thể kiếm được nguồn kinh phí hỗ trợ từ công nghiệp (ngược lại với các nhà khoa học làm việc trong các lĩnh vực có ứng dụng rõ ràng). Phải dành chỗ cho những nghiên cứu không có ứng dụng rõ ràng, bởi vì đó là điều kiện không thể thiếu để nâng cao đẳng cấp các đại học lên tầm quốc tế, để đào tạo các nhà khoa học và các kỹ sư hơn là các kỹ thuật viên. Để thành công, nghiên cứu ứng dụng cần phải đồng hành với nghiên cứu cơ bản.
Trong một đất nước việc dành tỉ lệ nào đó cho khoa học mà không quan tâm đến những ứng dụng khả dĩ là một quyết định quan trọng của các nhà lãnh đạo. Mỗi quốc gia đều có một số lĩnh vực cần ưu tiên phát triển và trong các lĩnh vực đó tuyển chọn những đề tài nhất định. Trong hoàn cảnh Việt Nam, những ngành khoa học có những ứng dụng trong nông nghiệp, môi trường, y tế là những trường hợp hiển nhiên. Song đó cũng là  trường hợp của vật lý hạt nhân để chuẩn bị vận hành, bảo trì và phát triển khoảng năm lò phản ứng hạt nhân mà Việt Nam dự định xây dựng đến trước năm 2025. Những ngành này cần có chính sách ưu tiên, cũng như phải được đầu tư nguồn nhân lực và vật lực, đó là những yếu tố quan trọng trong chính sách khoa học của đất nước. Những yếu tố này xác định mức độ nỗ lực của Nhà nước trong đầu tư nghiên cứu khoa học. Sự đầu tư cho nghiên cứu không để ý đến ứng dụng, lấy chất lượng làm tiêu chuẩn lựa chọn duy nhất, được đánh giá theo mức độ đó, điều này dẫn đến một quyết định về tỉ lệ đầu tư nghiên cứu của đất nước. Dĩ nhiên, đầu tư cho khoa học càng nhiều càng tốt, nhưng để xác định đúng mức độ đầu tư đòi hỏi một sự phân tích chi tiết trước về tình hình, hiện trạng và một sự đánh giá khách quan những người có kĩ năng và tài năng với mục đích tìm ra được những người mà trình độ có thể nâng lên tầm quốc tế khi họ được cung cấp đủ các điều kiện cần thiết..
Việt Nam hiện nay đang tiến hành từng bước quá trình hướng tới việc nâng cấp các trường đại học và các phòng thí nghiệm. Đây là một cơ hội tốt không thể bỏ qua để làm rõ chính sách  khoa học liên quan đến những vấn đề nêu ra.

Tác giả

(Visited 45 times, 1 visits today)