Sao để họ đứng ngoài cuộc ?
25 năm qua, Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã hoạt động liên tục, trung bình 1300 giờ/năm - một chỉ tiêu nổi bật trong số các lò phản ứng cùng loại trên thế giới, được IAEA nhìn nhận. Gần đây, nhóm chuyên gia tại Đà Lạt đã bắt tay tính toán thiết kế lò phản ứng nghiên cứu mới, công suất gấp 20 lần lò hiện nay. Tuy chưa phải là lò năng lượng trong nhà máy điện hạt nhân, song thử hỏi ở nước ta mấy ai có bề dày kinh nghiệm hơn họ về ngành công nghệ này? Thế mà trong đề án dày ngót 1000 trang về điện hạt nhân sắp đem ra trình Quốc hội, họ lại đứng ngoài cuộc - chẳng những không được tham gia dựng nên bản đề án mà cũng chẳng được mời tham vấn trước khi trình lên Chính phủ.
Ba mươi năm trước, nhân đi công tác qua Matxcơva, tôi nhận được lệnh trực tiếp từ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh yêu cầu ghé lại Ủy ban Năng lượng Nguyên tử (UBNLNT) Liên Xô ký duyệt “Nhiệm vụ thiết kế” cho công trình cải tạo và nâng cấp lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Nói là cải tạo và nâng cấp, song thật ra, cơ sở hạt nhân cũ với lò TRIGA MARK II do hãng General Atomic (Mỹ) chế tạo chỉ còn lại khối bê tông bao bọc thùng lò và vòm nhà tròn xinh xắn do KTS Ngô Việt Thụ thiết kế. Trong ruột không còn gì đáng kể. Nhiên liệu đã kịp rút đi trước ngày giải phóng, những thứ lỉnh kỉnh khác trở nên vô dụng, được chúng tôi tháo gỡ cất kỹ trong kho thải phóng xạ.
Sau chưa đầy mười phút tiến hành các thủ tục ký kết (bởi mọi chi tiết kỹ thuật đã được hai bên bàn thảo từ trước), tôi rời khỏi trụ sở được canh gác hết sức nghiêm ngặt của UBNLNT Liên Xô mà lòng nặng trĩu. Lững thững một mình trên đại lộ Lênin đến đoạn vắt ngang qua sông Matxcơva óng ánh dưới nắng chiều và tòa tháp Đại học Lômônôxốp hiện lên trên nền trời (nơi đây khoa học hạt nhân đã đón nhận tôi gần 20 năm về trước), tôi chợt nhận ra gánh nợ nặng nề trên vai mình và các đồng nghiệp – một ngành khoa học công nghệ hạt nhân của đất nước đang ở phía trước.
Giới thiệu kết quả nâng cấp hệ thống điều khiển lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt |
Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt (LPUHN ĐL) được chính thức đưa vào hoạt động đúng 25 năm trước đây. Lúc này có người chê nó bé quá, công suất 500 kW, nhưng từng ấy mà khai thác có hiệu quả cũng quá đủ để đất nước tiếp cận với khoa học công nghệ hạt nhân. Việt Nam nằm trong số 56 nước có LPUHN trên thế giới.
Tuy công suất thấp nhưng bảo đảm vận hành an toàn lại không hề đơn giản. Không thể để bề mặt thanh nhiên liệu bị sôi, hoặc bị nước ăn mòn, khiến chất phóng xạ có thể thoát ra ngoài vỏ bọc. Nơtron dẫn ra theo các kênh thí nghiệm và chất phóng xạ do lò tạo nên phải bảo đảm không gây hại đến con người. Trên hết, phải luôn cảnh giác với hàng triệu cu ri phóng xạ từ mảnh vỡ phân hạch nằm bên trong các thanh nhiên liệu.
Khi nhận nhiệm vụ chỉ huy xây dựng, vận hành và khai thác LPUHN ĐL, bên cạnh tôi là những đồng nghiệp thuộc loại ưu tú và sung sức nhất lúc bấy giờ, về chuyên môn lẫn phẩm chất, được đào tạo nhiều năm ở Liên Xô và Pháp. Có điều, không ai trong chúng tôi từng chuyên sâu về lò phản ứng. Không dễ gì học sâu vào công nghệ hết sức nhạy cảm này, cho dù ngày ấy ta với Liên Xô là anh em chí cốt.
Buổi trao đổi giữa GS. Phạm Duy Hiển và các chuyên gia Liên Xô (cũ) về thiết kế lò phản ứng
hạt nhân Đà Lạt cách đây 27 năm |
Lại thêm một khó khăn cực lớn nữa là Liên Xô chỉ nhận giúp ta xây lò phản ứng, trong khi rất nhiều phương tiện thiết bị và phòng thí nghiệm để khai thác lò phục vụ quốc kế dân sinh luôn bị gạt ra khỏi bàn đàm phán. Trưởng đoàn Liên Xô thường chỉ vào bản Hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ với dòng chữ cộc lốc “khôi phục lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt” trong số hàng loạt hạng mục công trình ưu tiên khác lúc bấy giờ như thủy điện, dầu khí v.v… Thành ra, khi lò chạy, nơtron sinh ra để rồi tự nó chết đi mà không sử dụng được để điều chế chất phóng xạ, không thể rút chúng ra khỏi bốn kênh dẫn luôn được bịt kín.
Đất nước lúc này lại đang trải qua thời kỳ khốn khó nhất. Cơn bão “giá, lương, tiền” ập vào hai bữa ăn hằng ngày, thiết bị linh kiện nghiên cứu khoa học không sao mua được do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ. Cho nên sau những tiếng u ra và sâm banh nổ giòn trong ngày khánh thành là những đêm dài trằn trọc. Chả lẽ, tốn ngần ấy tiền của và công sức chỉ để hằng ngày thắp lên và chiêm ngưỡng ngọn lửa xanh óng ánh qua sáu mét nước trong suốt dưới đáy lò thôi ư?
Một đất nước nếu mong muốn khai thác điện hạt nhân phải sớm đào tạo được một đội ngũ chuyên gia trình độ cao. Không chỉ gồm các kỹ thuật viên (tương đối dễ) mà còn phải đào tạo được một đội ngũ các nhà vật lý, kỹ sư trình độ cao có kiến thức, khả năng làm chủ về các vấn đề an toàn, xử lý chất thải, hiểu sâu vật lý và kỹ thuật lò phản ứng hạt nhân; phải có một đội ngũ có thể ra những lựa chọn, quyết định tốt và chính xác; phải có những người có đủ năng lực điều khiển, phụ trách liên lạc với công chúng, cung cấp các thông tin phù hợp. Để đào tạo được những đội ngũ như thế phải mất hàng năm, nếu không muốn nói là hàng chục năm; điều đó yêu cầu phải tích lũy kinh nghiệm về lò phản ứng ở nước ngoài và phải tạo ra trong nước một trung tâm mạnh để có thể mời các chuyên gia nước ngoài đến, giảng dạy và truyền đạt cho nhau kinh nghiệm của mỗi người. Việt Nam may mắn có một lò phản ứng hạt nhân nhỏ ở Đà Lạt, nhưng đang hoạt động có hiệu quả và có thể dùng làm hạt nhân để xây dựng một trung tâm như vậy. Nếu không thực hiện được điều này có nghĩa Việt Nam sẽ để cho các quốc gia khác quản lý vận hành nhà máy, sẽ không tránh khỏi việc mất tự chủ. GS. Pierre Darriulat |
Không! Mục tiêu đặt ra trước mắt chúng tôi là trong một thời gian ngắn nhất phải thử nghiệm tất cả những gì mà một lò phản ứng hạt nhân công suất tương đối thấp có thể làm được, qua đó xây dựng đội ngũ, nâng cao trình độ để hướng đến những mục tiêu lâu dài hơn là điện hạt nhân. Muốn thế, và trên hết, lò phản ứng lai ghép công nghệ giữa hai siêu cường hạt nhân độc nhất vô nhị này trên thế giới phải được vận hành an toàn, không thể chủ quan sơ sẩy để xảy ra bất cứ sự cố nhỏ nào.
Nhưng lấy đâu ra thiết bị để khai thác luồng nơtron cực mạnh từ lò phản ứng? Lúc này Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA là nguồn cung cấp thiết bị duy nhất mà ta không thể mua được do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ. Phần còn lại phải tự thiết kế, lắp ráp, chẳng những để khai thác lò tại chỗ mà còn cho những cơ sở sử dụng chất phóng xạ do lò cung cấp. Có lần đi dự hội nghị khoa học quốc tế, các đồng nghiệp nước ngoài ngạc nhiên thấy tôi đi mua linh kiện ở chợ mang về cho phòng điện tử hạt nhân lắp máy đo phổ phóng xạ. Ở nước họ, người ta cứ gọi điện thẳng đến hãng, mua hẳn các thiết bị hoặc các bloc, rồi lắp các bloc ấy lại thành thiết bị.
Mục tiêu đặt ra trên đây quả là quá lớn đối với một đội ngũ gồm phần lớn sinh viên mới tốt nghiệp đại học. May mắn, họ có một số đầu đàn đầy trách nhiệm, quyết tâm và đam mê. Tất cả đều lao vào học, học để làm, thông qua công việc (làm) để nâng cao trình độ (học). Đây chính là phương châm làm khoa học công nghệ “learning by doing” phổ biến ở các nước đi sau.
Thực hiện mục tiêu đề ra, trong vòng 10 năm đầu, chúng tôi đã dựng nên nhiều phòng thí nghiệm để thử nghiệm mọi ứng dụng của lò phản ứng công suất thấp mà những nước đi trước từng tiến hành, trong đó một số ứng dụng đã được triển khai trên quy mô rộng phục vụ quốc kế dân sinh. Chỉ còn độc nhất kỹ thuật điều trị u não bằng phản ứng bắt nơtron trên hạt nhân bo (boron neutron capture therapy) là chưa thử nghiệm do đầu tư quá lớn và thiếu đội ngũ bác sỹ có trình độ cao. Hiện nay tuy mới chỉ thỏa mãn chưa đầy 50% nhu cầu dược chất phóng xạ nội địa, nhưng con số này cũng đã gấp hàng trăm lần mức sử dụng trước ngày lò Đà Lạt hoạt động. Hàng trăm nghìn người đã được chẩn đoán và điều trị khỏi bệnh, đặc biệt là tuyến giáp dùng I-131 và u máu dùng P-32.
Nhưng cái được lớn nhất là một đội ngũ biết làm chủ lò phản ứng hạt nhân và các công nghệ liên quan. Gần đây, nhóm chuyên gia tại Đà Lạt đã bắt tay tính toán thiết kế lò phản ứng nghiên cứu mới, công suất gấp 20 lần lò hiện nay. Tuy chưa phải là lò năng lượng trong nhà máy điện hạt nhân, song thử hỏi ở nước ta mấy ai có bề dày kinh nghiệm hơn họ về ngành công nghệ này?
Thế mà trong cái chương trình to lớn về điện hạt nhân sắp đem ra trình Quốc hội, họ lại đứng ngoài cuộc. Chẳng những không tham gia dựng nên bản đề án dày ngót 1000 trang, họ cũng không được mời tham vấn trước khi trình lên Chính phủ. Theo bản đề án này, từ năm 2020 đến 2024 Việt Nam sẽ đưa vào vận hành 8 tổ máy điện hạt nhân, mỗi tổ có công suất nhiệt 3000 MW, gấp 6000 lần công suất lò phản ứng Đà Lạt. Như vậy, rồi đây trong vòng bán kính 20 km quanh thị xã Phan Rang sẽ có tám lò phản ứng, mỗi lò sẽ chứa một lượng phóng xạ gấp hơn 6000 lần những gì đang có và được canh phòng rất cẩn trọng hiện nay ở Đà Lạt. (Sẽ có một dịp khác để bình luận về sự phi lý và phiêu lưu của đề án này).
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Nhà nước đã ra sức tạo dựng nên một đội ngũ có bề dày kinh nghiệm xung quanh lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, được nước ngoài nhìn nhận và đánh giá cao qua những thành tích khoa học của họ, để rồi lại loại họ ra ngay trước khi về đến đích – điện hạt nhân?
Trong dịp kỷ niệm 25 năm lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt mới đây, tôi đã gặp lại những người cùng đồng cam cộng khổ đầy duyên nợ và nghĩa tình với mình từ 30 năm về trước và nói với mọi người rằng chúng ta chẳng những chưa trả xong gánh nợ với đất nước mà còn mang nặng trong lòng nỗi lo âu về tương lai của ngành hạt nhân. Trong buổi lễ long trọng ấy, tôi đã đọc hai câu quan họ:
Nợ tiền càng trả càng vơi,
Nợ tình càng trả, người ơi, càng đầy.
rồi thêm câu thứ ba:
Nợ đời biết trả sao đây?
với dấu hỏi còn lơ lửng mà không sao trả lời được.