Thành phố ma giữa đại dương

Từng có mật độ dân số cao nhất thế giới nhưng giờ đây Hashima, hòn đảo tý hon giữa đại dương của Nhật Bản, lại trở thành hoang đảo không một bóng người. Các thợ mỏ Nhật Bản khai thác than đá trong hầm lò dưới đáy biển đã giã từ mảnh đất này cách đây 35 năm. Ngày nay, Hashima trở thành thiên đường của các nhà nhiếp ảnh.

Người Nhật gọi hòn đảo này một cách thành kính là “đảo-tầu chiến” bởi nó thực sự giống một tầu chiến cổ lỗ trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương. Hòn đảo hầu như không có cây cối mà là một khối bê tông sắt thép khổng lồ với tường chắn bao bọc để ngăn sóng lớn, nhất là lúc có giông bão.

Trong nhiều thập niên, Hashima là minh chứng cho sự chiến đấu kiên cường của con người chống lại thiên tai và không gian chật chội vì chỉ có diện tích khoảng 7,2 ha (150m x 480m). Trữ lượng than khổng lồ ở đây trong nhiều thập kỷ đã thu hút hàng nghìn thợ mỏ và làm cho đảo trở thành nơi có mật độ dân số cao nhất thế giới.
Ngày nay hòn đảo trở nên cô độc, không một bóng người – trên đảo chỉ còn lại mấy chú mèo hoang. Từ biểu tượng của sự tiến bộ, hòn đảo trở thành biểu tượng cho quá khứ ngắn ngủi: trong các căn hộ vẫn còn bàn ăn với bát đĩa cốc chén, những chai lọ phủ đầy bụi và những cái tủ lạnh hoen gỉ. Từ một Hashima ồn ào, náo nhiệt được công nghiệp hoá cao độ nay nơi này trở thành một hòn đảo ma âm u và trở thành một nhân chứng thầm lặng của lịch sử kỷ nguyên công nghiệp Nhật Bản.

Một thành phổ kiểu mẫu của Nhật Bản

Than đá chất lượng cao là chiếc chìa khóa cho sự phát triển có một không hai của hòn đảo hoang vắng này. Ngay từ thế kỷ 19, người ta đã khai thác than đá trên đảo Takashima, láng giềng của Hashima, để làm chất đốt sản xuất muối. Với sự hỗ trợ của các kỹ sư Scotland vào năm 1869 đã hình thành những mỏ than đá đầu tiên, thời đó than đá nằm sâu 45 mét dưới đáy biển.

Nhu cầu về than đá tăng vọt nên năm 1980, Mitsubishi Nhật Bản đã mua đảo Hashima với giá 100.000 Yen. Hãng đã thiết lập một tuyến truyền tải than hiện đại dài khoảng 200 mét. Từng chuyên hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp vận tải biển, Mitsubishi quyết định xây dựng hòn đảo vốn rất khắc nghiệt với đời sống con người thành một thành phố kiểu mẫu – và nó đã trở thành một bản sao thu nhỏ của xã hội Nhật Bản.

Để ngăn những cơn sóng dữ, hãng đã xây dựng một bức tường bê tông kiên cố bao quanh toàn bộ hòn đảo. Số lượng thợ mỏ ra đảo ngày càng nhiều, sản lượng than đá khai thác hàng năm tăng nhanh – năm 1916 là 150.000 tấn, 1941 đã vọt lên 400.000 tấn. Biểu tượng cho một xã hội trọng tôn ti trật tự, viên quản lý mỏ là người duy nhất có một căn nhà riêng tọa lạc trên mũi hòn đảo trong khi tất cả những người thợ mỏ bình thường đều ở trong những căn phòng chật chội chỉ khoảng 10 mét vuông và đều sử dụng nhà vệ sinh chung. Những tòa nhà bê tông mặt tiền mầu xám là bộ mặt của đảo – vào thời điểm đó, những khu chung cư nhiều tầng được coi là biểu tượng kiến trúc trong tương lai. Tòa nhà bê tông cốt thép cao nhất Nhật Bản được xây dựng năm 1916 ngay trên đảo Hashima với chín tầng.

Không phải ai cũng tình nguyện đến đảo. “Khi trông thấy Hashima, tôi không còn một tia hy vọng nào”, ông Suh Jung-Woo kể lại trong một cuộc phỏng vấn. Ông thợ mỏ người Triều Tiên nhanh chóng phát hiện ra rằng, khó có thể trốn chạy khỏi hòn đảo này. Ông là một trong số hàng trăm lao động cưỡng bức đưa từ Trung Quốc và Triều Tiên tới trong Chiến tranh thế giới thứ hai để khai thác than đá. “Công việc ở đây hết sức nặng nhọc. Không khí trong hầm lò ngột ngạt, khó thở, trần và tường được xây bằng đá luôn có nguy cơ bị vỡ lở và sập. Hồi đó, tôi luôn nghĩ mình sẽ không bao giờ sống sót ra khỏi nơi này”.

Thực tế là rất nhiều lao động cưỡng bức đã chết vì điều kiện lao động vô cùng khắc nghiệt, hay vì kiệt sức và tai nạn. “Tháng nào cũng có từ bốn đến năm lao động bị chết”, ông Jung-Woo kể. Tất nhiên không phải chỉ có lao động cưỡng bức bị chết. Ông Brian Burke-Gaffney, là tác giả đồng thời là giáo sư tại đại học Nagasaki, đã viết về Hashima và ước tính đến cuối cuộc chiến tranh thế giới II, có khoảng 1.300 lao động bị chết trên đảo. Một số người vì quá tuyệt vọng đã tìm cách bơi vào đất liền và thất bại.

Ngược lại, ông Doutoku Sakamoto lại luôn thấy nhớ hòn đảo này. Ông lớn lên ở đây trong một thời kỳ hoàn toàn khác: sau chiến tranh thế giới II, đảo Hashima trải qua một thời kỳ hoàng kim, Công nhân làm được hưởng nhiều ưu đãi và có mức lương khá cao, có thể nói mức sống tại đảo cao hơn mọi nơi khác ở Nhật Bản, từ đó người ta thu hút được khá nhiều lao động đến làm việc. “Với chúng tôi, mọi cái đều tuyệt vời”, ông Sakamoto kể trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình. “Tất cả chúng tôi ai cũng có tivi, tủ lạnh và máy giặt, dù đó là thời điểm những năm 1960”.

Trừ nghĩa địa, ở đây không thiếu cái gì: trường phổ thông cơ sở, sân chơi, rạp chiếu phim, bệnh viện, tiệm cắt tóc, quán nhậu, nhà hàng – thậm chí còn có cả chùa thờ Phật… Nếu trong những thập niên đầu, người ta phải chở nước ngọt bằng tầu thủy ra đảo thì từ năm 1957 đã có ống dẫn nước dài hàng km từ đất liền ra đảo. Do xây dựng dày đặc nên trên đảo không có đất trống, dân đảo phải trồng cây và rau xanh trên mái nhà để phục vụ nhu cầu cuộc sống.

Trên đảo hầu như không có chỗ cho cuộc sống riêng tư. Như trong một thí nghiệm ngoài trời nhỏ tí xíu, cách đây nhiều thập niên, người Nhật trên đảo Hashima đã phải đứng trước những vấn nạn mà ngày nay cả nước Nhật đang phải đối mặt: đó là sự thiếu không gian của một xã hội có trình độ phát triển cao. Mọi vị trí trên đảo đều có thể tới chỉ trong vòng ít phút, tất cả các tòa nhà được kết nối bởi một mê cung hành lang hẹp và cầu thang. Vì thiếu mặt bằng nên nhà trẻ và bể bơi phải thiết kế trên mái tòa nhà chung cư – cách những cái đu quay chỉ vài mét là một cái chợ, họp một lần trong tuần.

Vào thời kỳ cao điểm, trên đảo có 5.259 người sinh sống. Trên mỗi ha có đến 835 người, cao gấp gần sáu lần so với Tokyo hiện nay. Ông Doutoku Sakamoto không cảm thấy phiền toái vì điều này – ngược lại, ông kể với đài truyền hình Đức ZDF trong một cuộc trả lời phỏng vấn: “Đây là một cộng đồng thật sự, mỗi người vì mọi người, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ người hàng xóm của mình, những điều từ lâu đã bị lãng quên ở nước Nhật ngày nay.”

Chính vì sự lãng quên này mà ông luôn sẵn sàng trả lời phỏng vấn của phóng viên nước ngoài. Tận dụng sự chú ý của các phương tiện truyền thông, ông đã tìm mọi cách chống lại sự lãng quên của thời gian để có thể đưa Hashima vào danh sách di sản văn hoá thế giới của Unesco -không phải chỉ vì yếu tố kiến trúc mà vì hòn đảo chính là đài tưởng niệm chống lại sự khai thác thiên nhiên một chiều thái quá. Sự giàu có một thời của hòn đảo đã trở thành định mệnh của nó: việc khai thác than tại đây trở nên quá tốn kém, nhu cầu về than giảm, nền công nghiệp hiện đại của Nhật Bản đột ngột chuyển sang sử dụng dầu mỏ. Sau khi khai thác được trên 16 triệu tấn than, Mitsubishi tuyên bố đóng cửa hầm mỏ vào tháng giêng năm 1974.

Vì những công nhân đầu tiên đăng ký làm việc trên đất liền cho Mitsubishi tại Nagasaki đều được đảm bảo sẽ có việc làm nên rất nhiều thợ mỏ đã nhanh chóng rời đảo. Từ tháng 4-1974, trên đảo Hashima đã không còn một ai. Trong nhiều thập niên, “đảo tầu chiến” như đã ngủ yên, Hashima trở thành cấm địa do nguy cơ sập đổ. Chỉ có một số nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp được lên đảo để thu thập tư liệu về những lối đi như mê cung, về sự suy tàn của ngành công nghiệp khai thác than đầy tự hào một thời của Nhật Bản.

Giờ đây sau hơn một phần tư thế kỷ, Nhật Bản lại muốn kiếm tiền từ Hashima thông qua phát triển du lịch. Để được tham quan một phần của đảo, người ta phải trả khoảng 30 Euro. Ông Doutoku Sakamoto hy vọng, những di tích hoang phế tại đây sẽ kích thích trí tò mò của du khách. Riêng với ông, Hashima tượng trưng cho sự hữu hạn của tài nguyên. “Tương lai của chúng ta ở đâu?”, ông nêu câu hỏi. “Tôi sẽ rất vui khi con người nhìn vào Hashima và nêu câu hỏi này với chính mình”.

Xuân Hoài dịch

 

Tác giả

(Visited 1 times, 1 visits today)