Trốn tránh chuẩn mực quốc tế là tạo cơ sở cho tiêu cực trong nghiên cứu khoa học

Không ít các cán bộ khoa học có đủ mọi bằng cấp và chức danh ở ta thường tìm mọi cách lảng tránh các chuẩn mực khoa học nghiêm túc và khách quan với ngụy biện rằng chúng ta mới qua chiến tranh, còn nghèo, cần phải từ từ, rằng họ thực hiện các đề tài nghiên cứu định hướng “ứng dụng” không đòi hỏi phải có công bố quốc tế như các nghiên cứu “lý thuyết” ? Lập luận đó vẫn cứ lặp đi lặp lại trong nhiều năm, bất chấp những thay đổi diễn ra thời gian qua, kể cả khi chúng ta đã bước vào tiến trình hội nhập và kinh phí nhà nước đầu tư cho khoa học & công nghệ được tăng mạnh nhờ có sự tăng trưởng của nền kinh tế.

Nếu họ làm ứng dụng thực sự phục vụ thực tế thì họ phải thu được kinh phí trực tiếp từ các cơ sở sản xuất và thị trường, và nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ về mặt hành chính và pháp lý, kể cả có thể xét cho vay vốn ưu đãi. Còn đã là thực hiện đề tài nghiên cúu, nghĩa là hưởng kinh phí bao cấp từ nhà nước, thì họ phải chịu các đòi hỏi nghiêm ngặt và khách quan về chuẩn mực khoa học cho các kết quả nhận được (không phải chỉ là một báo cáo tổng kết để xếp tủ, hay áp dụng hình thức, không hiệu quả), và qua đó giúp nâng cao được cái nền của khoa học & công nghệ nước nhà.
Công bố bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành được phản biện khách quan bởi các chuyên gia ẩn danh sẽ buộc nhà khoa học phải cập nhập học hỏi được các thành tựu tiên tiến trên thế giới trong lĩnh vực chuyên môn của mình, giúp kiểm định được phương pháp giải quyết vấn đề của nhà khoa học là đúng đắn, và khẳng định được trình độ và đóng góp của nhà khoa học. Mọi lĩnh vực chuyên môn từ lý thuyết đến ứng dụng đều có các tạp chí của mình, và các tạp chí thuộc các lĩnh vực ứng dụng thậm chí còn nhiều áp đảo so với các tạp chí có thiên hướng lý thuyết.
Trên trường quốc tế, trình độ và năng lực của các nhà khoa học và cả các quốc gia được đánh giá trước tiên qua số bài báo công bố trên các tạp chí khoa học chuẩn mực quốc tế, và số bằng phát minh, sáng chế. Theo Viện thông tin khoa học (Institute for Scientific Information – ISI), có trụ sở tại Mỹ, các nhà khoa học các ngành của VN, từ Y, Sinh, Nông nghiệp tới Toán, Lý, Hóa, và các lĩnh vực Kỹ thuật, Kinh tế, đã công bố trong 10 năm qua (tính tới tháng 2/2007) tổng cộng 4 ngàn bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuẩn mực. Con số đó chỉ bằng 1/3 con số tương ứng của Malaysia (trong khi số dân nước ta bằng 4 lần số dân Malaysia), 1/4.5 số bài của Thái lan, dưới 1/11 của quốc đảo Singapore, 1/45 của Hàn quốc, 1/108 của Trung quốc (số dân VN bằng 1/16 TQ), và 1/700 của Mỹ.
Cụ thể hơn, gần 50% số bài của Thái Lan là do nội lực (tự họ làm được), trong khi tỷ lệ nội lực của chúng ta chỉ là 20%, còn lại là do hợp tác với quốc tế. Điều đó cho thấy các nhà khoa học của chúng ta vẫn còn phải dựa nhiều vào hỗ trợ quốc tế. Điều đáng lo là mặc dù số bài mà chúng ta tham gia có tăng 10% hằng năm, số bài nội lực vẫn chỉ dừng ở số 80 bài/năm trong suốt 10 năm qua, bất kể kinh phí nghiên cứu khoa học từ ngân sách quốc gia của chúng ta được tăng mạnh trong thời gian này. Các công bố quốc tế từ nội lực của cả khoa học VN chỉ bằng 1/4 con số tương ứng của riêng ĐH Chulalongkorn của Thái Lan, một ĐH có kích cỡ tương đương ĐH quốc gia HN.
Con số chi tiết về số công bố quốc tế các ngành của Việt Nam 10 năm qua: 1.Y học lâm sàng (656 bài), 2. Vật lý (640), 3. Động thực vật học (531), 4. Toán (424), 5. Kỹ thuật (277), 6. Hóa (272), 7. Nông nghiệp (174), 8. Địa chất (158), 9. Môi trường (150), 10. KHXH (145), …,15 Kinh tế (29), …
Có một điếm sáng: do những lý do lịch sử, các ngành Toán và Vật Lý của chúng ta đã tập hợp được lực lượng mạnh trong quá khứ, có được truyền thống khá tốt, và là hai ngành duy nhất đã có được số công bố quốc tế sánh ngang và vượt các nước bạn Đông Nam Á. Tuy nhiên khi xét về tổng thể, các bài báo quốc tế lại đến chủ yếu từ các lĩnh vực khoa học ứng dụng mà ta thua xa bạn.
Động lực nghiên cứu chất lượng để công bố quốc tế ở VN hiện nay mới chỉ xuất phát từ 2 nguồn bên ngoài: cơ hội được mời ra nước ngoài cộng tác (như ở các ngành Toán và Vật lý lý thuyết), và từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng trong nước được quốc tế tài trợ và có sự tham gia của chuyên gia nước ngoài (như trong các lĩnh vực Y, Sinh và Môi trường). Động lực công bố quốc tế nội lực hầu như không có: từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng kinh phí lớn cấp Bộ Ngành, cấp Nhà nuớc tới các đề tài nghiên cứu cơ bản kinh phí nhỏ hơn, trên thực tế, đều phớt lờ đòi hỏi cần có về công bố quốc tế. Điều đó dẫn tới số lượng ít ỏi các kết quả nội lực đạt chuẩn mực quốc tế như đã nói ở trên – phản ánh chất lượng kém của các đề tài nghiên cứu và hiệu quả thấp của vốn đầu tư của nhà nước cho khoa học công nghệ..
Thiếu ràng buộc về chất lượng nghiên cứu dẫn tới lỏng lẻo trong quản lý và tiêu cực trong việc xét và phân kinh phí các đề tài, đạo đức thấp của cộng đồng khoa học, làm giả ăn thật tràn lan. Kể cả các nhà khoa học dã được đào tạo tốt ở nước ngòai trở về cũng bị tàn lụi dần theo thời gian trong một môi trường thiếu lành mạnh như vậy.
Công nghệ không phải là thứ dễ định lượng đo đếm được. Nhưng chính thông qua lao động của các chuyên gia với các kết quả nghiên cứu theo chuẩn mực quốc tế (các bài báo và các sáng chế), nhất là của các lĩnh vực ứng dụng, công nghệ sẽ dần được hình thành. Các quốc gia có nhiều kết quả bài báo công bố quốc tế cũng là các quốc gia có nhiều phát minh, sáng chế và nền công nghệ phát triển tương ứng.
Chính bởi tầm quan trọng của các bài báo khoa học chuẩn mực quốc tế đối với nền khoa học công nghệ của một quốc gia, ngoài thông lệ chung quốc tế sử dụng các kết quả đó như là cơ sở cho xét duyệt, đánh giá các đề tài nghiên cứu và thăng tiến nghề nghiệp của các nhà khoa học, nhiều nước đang phát triển, từ Hàn quốc, Pakixtan tới TQ,  còn có thêm chế độ thưởng tiền mặt trực tiếp cho các bài báo công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín. Luận án TS từ Hàn quốc tới Phillipnes đều đòi hỏi phải có các bài báo đăng tạp chí quốc tế ISI. Các Viện nghiên cứu của Viện HLKH Trung quốc khẳng định năng lực và thành tích nghiên cứu của họ qua số bài báo quốc tế đạt chuẩn cao nhất SCI  và số bằng phát minh, sáng chế.
Tại sao lực lượng khoa học công nghệ của chúng ta tuy khá đông về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng, mặc dù từ mấy chục năm nay nhà nước vẫn luôn khẳng định “khoa học kỹ thuật là then chốt”, và kể cả trong những năm chiến tranh gian khổ vẫn tuyển chọn nhiều học sinh ưu tú gửi đi đào tạo ở các nước tiên tiến nhằm xây dựng tiềm lực cho chúng ta ngày hôm nay. Đừng nhắc mãi tới các lý do khách quan để mà nhìn thấy nguyên nhân chủ quan: chính sách khoa học của chúng ta có nhiều bất cập và lạc hậu. Mặt khác, tầm nhìn, ý thức nghề nghiệp, ý chí phán đấu vươn lên độc lập tự cường, tự đánh giá mình một cách khách quan, của các nhà khoa học VN, trước hết là những người chiếm giữ các vị thế được coi là “đầu ngành”, nhìn chung là yếu.
Chuẩn mực TS là gì nếu như ứng viên không có nổi lấy một bài báo đăng tạp chí quốc tế ? Một GS có xứng danh hay không khi không thể là tác giả chính (từ nội lực, sau khi đã bảo vệ luận án TS) của dù chỉ một bài báo quốc tế chuẩn mực tối thiểu ISI ? Khoa học VN làm sao mà tiến bộ được khi phần lớn các thành viên của một Hội đồng ngành NCCB, Hội đồng chức danh GS Ngành, Ban biên tạp tạp chí ngành,… không có nổi lấy một bài báo khoa học đăng tạp chí chuẩn mực SCI trong 5 năm, và thậm chí 10 năm gần đây nhất.
Cũng dễ hiểu vì sao nhiều chức sắc đầu ngành của chúng ta lại dị ứng và phớt lờ chuẩn mực quốc tế. Mập mờ là điều họ cố gắng duy trì. Vì đề cao chất lượng nghiên cứu khoa học sẽ làm ảnh hưởng tới vị thế “đầu ngành” và các đặc quyền đặc lợi của họ, trong khi tư duy văn hóa phong kiến của họ là rất nặng nề.
Với tư duy lạc hậu và tiến độ làm khoa học như con số cụ thể đã nói ở trên, phải nửa thế kỷ nữa chúng ta mới tới được trình độ công bố quốc tế hiện nay của các láng giềng Thái Lan và Malaysia, và đành lòng quên đi ước mơ có ngày VN sánh vai được với các cường quốc Năm châu như cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn?
Để đổi mới khoa học như chúng ta đã thành công trong đổi mới nền kinh tế, việc tiên quyết phải làm là  thiết lập môi trường khoa học lành mạnh dựa trên các chuẩn mực quốc tế đã được xác lập thông qua các bài báo khoa học quốc tế ISI, các phát minh, sáng chế, sản phẩm mới hữu dụng – đóng vai trò như tiêu chuẩn thị trường trong kinh tế. Mọi chương trình khoa học, các đề tài nghiên cứu, các bằng cấp, chức danh, và Hội đồng khoa học ngành, đều phải được xây dựng trên cái nền này.
————
* Viện Cơ học, Hà nội.

Phạm Đức Chính*

Tác giả

(Visited 1 times, 1 visits today)