Vaccine ho gà – Những người hùng thầm lặng

Đến giữa thế kỷ XX, nhân loại vẫn bất lực trước căn bệnh ho gà. Nó lấy đi 7.500 sinh mạng ở Mỹ mỗi năm hồi đầu thập niên 1930, hầu hết là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Những người sống sót có thể bị tổn thương vĩnh viễn về nhận thức và thể chất. Tất cả đã thay đổi, nhờ có Kendrick và Eldering...


Bức tượng Kendrick đứng giữa, bên trái là Grace Eldering, bên phải trợ lý phòng thí nghiệm Loney Clinton với kính hiển vi trên tay. 

Cuối năm 1932, tại thành phố Grand Rapids, Michigan, Pearl Kendrick và Grace Eldering đến thăm các trẻ em bị bệnh và xác định xem chúng có nhiễm một căn bệnh có khả năng gây chết người hay không. Sau này, hai người hồi tưởng lại nhiều gia đình lâm vào cảnh tuyệt vọng. “Người cha tuyệt vọng khi không thể tìm được việc làm còn chúng tôi đã thu thập mẫu vật dưới ánh đèn dầu tù mù, khi những đứa trẻ đang nghẹt thở với những tràng ho và cơn nôn vật vã”.

Căn bệnh khó chẩn đoán lâm sàng

Những đứa trẻ này mắc bệnh ho gà, căn bệnh ngày nay đã được thanh toán tại các nước phát triển nhưng từng là nỗi kinh hoàng với nhiều gia đình trong quá khứ.
Nhưng rất khó để chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng. Thoạt đầu, căn bệnh có vẻ như không có gì nghiêm trọng, chỉ là chảy nước mũi và ho nhẹ. Những bà mẹ trông con đang nằm trong nôi thở rất khó khăn nhưng sau đó liền cảm thấy nhẹ nhõm khi lồng ngực bé nhấp nhô đều đặn trở lại. Bác sĩ cũng có thể bỏ sót và nghĩ “chỉ là cảm lạnh xoàng không đáng lo”. Tuy nhiên, khoảng một đến hai tuần sau, cơn ho trở thành những tràng dữ dội liên tục, xen kẽ bằng tiếng rít bóp nghẹt và đứa trẻ phải ráng sức hít chút không khí xuống cổ họng. Âm thanh đặc trưng đó không thể lẫn vào đâu được.

Tình trạng ấy có thể kéo dài ba tháng. Kể cả ngày nay, rất ít bác sĩ có khả năng điều trị những bệnh nhi đã bước sang giai đoạn bệnh tới mức này.

Ngày đó, phụ nữ còn hiếm khi tham gia vào các công việc chuyên môn sâu của ngành y tế và khoa học nói chung. Y tế công cộng là một trong số ít các lĩnh vực khoa học đầu tiên chấp nhận trao cơ hội cho phụ nữ. Kinh nghiệm kiểm soát bệnh truyền nhiễm trong Thế chiến I đã mở ra tư duy mới nhằm cải thiện sức khỏe cộng đồng. Để phục vụ cho y tế công cộng, các phòng thí nghiệm của các tiểu bang cần thêm nhân lực để làm xét nghiệm chẩn đoán. Hồi đó nam giới được đào tạo về y tế công cộng có xu hướng tìm các công việc được trọng vọng và thu nhập cao tại các trường đại học hoặc cơ quan nghiên cứu. Các phòng thí nghiệm đưa ra mức lương thấp tè và công việc thí nghiệm lặp lại tẻ nhạt nên thường tuyển phụ nữ – nhân sự lý tưởng cho những công việc nhàm chán đó.

Kendrick đã tìm được công việc tại một phòng thí nghiệm thuộc sở y tế Michigan và sau đó làm giám đốc phòng thí nghiệm tại Grand Rapids. Năm 1932, bà hoàn thành bằng tiến sĩ tại trường vệ sinh và y tế công cộng Johns Hopkins. Sau đó, bà trở lại Grand Rapids để chuyên tâm nghiên cứu một căn bệnh duy nhất: ho gà. Năm đó, thành phố đang gánh chịu một đợt bùng phát nghiêm trọng.

Grace Eldering là nhân viên phòng thí nghiệm của tiểu bang Michigan tại Lansing, rồi chuyển về Grand Rapids nghiên cứu về bệnh ho gà. Tại đây, Grace và Kendrick đã bắt đầu cộng tác suốt đời.

Mục tiêu ban đầu của họ chỉ là chẩn đoán bệnh sớm và chính xác hơn để đưa các bệnh nhân đi cách ly càng sớm cáng tốt và quyết định thời điểm người đó đi học hoặc đi làm trở lại ngay khi giai đoạn lây nhiễm kết thúc. Công cụ của họ là những chiếc “đĩa ho”, về cơ bản là đĩa petri với môi trường cấy là thạch máu. Hai người phụ nữ, cùng các bác sĩ, y tá, và những thành viên khác trong nhóm, sẽ giữ khoảng cách vài inch với chiếc đĩa đang mở nắp và cho bệnh nhân ho vào đó. Sau đó, đậy nắp đĩa lại, đem vào tủ ủ ấm của phòng thí nghiệm để vi khuẩn phát triển thành các khúm khuẩn lạc.


Pearl Kendrick đang làm việc. (Ảnh giữa và bên phải), một đĩa cấy khuẩn chưa môi trường thạch máu, và hình ảnh vi khuẩn Bordetella pertussis, thủ phạm gây ra bệnh ho gà. Chúng lây lan thông qua các giọt bắn trong không khí và xâm chiếm các tế bào phổi. Chúng chỉ có một vật chủ duy nhất: con người.

Vào ngày 28/11/1932, phòng thí nghiệm đã xác nhận mẫu vi khuẩn Bordetella pertussis đầu tiên. Vi khuẩn gây bệnh này cũng được xác định tại Bỉ cách đó một phần tư thế kỷ, nhưng chưa một nhân viên nào của phòng thí nghiệm từng nhìn thấy nó. Họ đã so sánh mẫu của mình với các công bố khoa học được xuất bản. Kendrick và Eldering ghi nhận rằng các khúm khuẩn lạc “mịn, gồ lên, sáng lấp lánh, giống như ngọc trai và gần như trong suốt”, được bao bọc bởi một quầng nhạt và nơi vi khuẩn đang ăn thạch máu của môi trường nuôi cấy.

Họ nhanh chóng mở rộng dự án nghiên cứu đầy tham vọng của mình, họ thu thập “đĩa ho” trong toàn thành phố nhằm theo dõi và kiểm soát sự bùng phát của bệnh ho gà. Thay vì sử dụng máu người làm môi trường nuôi cấy như các nghiên cứu quy mô nhỏ hơn nhiều, họ đã chuyển sang dùng máu cừu, ít tốn kém và rất sẵn có. (Eldering lớn lên trong một nông trang, nên có hiểu biết về cừu). Đó là một trong nhiều cải tiến cho phép họ mở rộng đáng kể chương trình thử nghiệm của thành phố.

Nguyên mẫu vaccine ho gà đầu tiên

Chỉ bảy tuần từ khi nhìn thấy mầm bệnh đầu tiên, vào tháng 01/1933, Kendrick và Eldering đã sản xuất nguyên mẫu vaccine ho gà đầu tiên.

Vaccine cho bất kỳ căn bệnh nào ở thời kỳ này vẫn còn đang thuở sơ khai, không phải như công thức sẵn có. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu phải mày mò thử nghiệm các phương pháp khác nhau để làm chết hoặc suy yếu mầm bệnh, đủ an toàn để tiêm vào cơ thể người, nhưng cũng đủ mạnh để tạo sức đề kháng miễn dịch lâu dài với căn bệnh. Trước thời điểm mà nhóm của Kendrick nghiên cứu vaccine ho gà, vào năm 1931, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ từ chối công nhận bất kỳ loại vaccine ho gà nào được đề xuất với kết luận rằng chúng hoàn toàn không ảnh hưởng đến việc phòng ngừa và cũng vô dụng trong điều trị sau khi bệnh khởi phát.

Vaccine của Kendrick và Eldering bao gồm vi khuẩn Bordetella chết, toàn tế bào đã qua dung dịch khử trùng thông thường, được làm sạch và lơ lửng trong dung dịch nước muối. Những nhà chuyên môn trước đó thường bỏ qua việc cung cấp thông tin quan trọng về quy trình chuẩn bị, liều lượng và các khía cạnh khác, dẫn đến các lô sản xuất không đồng nhất về chất lượng. Kendrick và Eldering đã thực hiện cách tiếp cận có hệ thống hơn ở mọi bước, từ việc thu thập vi khuẩn ban đầu cho đến thử nghiệm vaccine có thực sự bảo vệ trẻ hay không. Họ tích lũy hiểu biết trong quá trình thực hành, ví dụ, vi khuẩn nên được thu thập ở giai đoạn nào để tạo khả năng miễn dịch mạnh hơn, và họ cũng thử nghiệm lặp lại nhiều lần để đảm bảo vaccine an toàn, bằng cách tiêm vào động vật thí nghiệm, và cho chính họ.

Nhưng để kiểm tra xem liệu vaccine của họ có bảo vệ trẻ em một cách an toàn và hiệu quả hay không sẽ đòi hỏi một nghiên cứu thực địa quy mô lớn, có đối chứng – so sánh với một nhóm được tiêm chủng với một nhóm tương tự chưa được tiêm chủng.


Kendrick, ngoài cùng bên phải, đang quan sát đồng nghiệp tiêm vaccine ho gà cho một em bé, năm 1942. Ngành y tế bắt đầu phân phối vaccine của bà từ năm 1940, đã giúp giảm số ca tử vong một cách thần kỳ.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có bất cứ điều gì mình không thể làm được”, sau này Kendrick tâm sự. Dù tự tin như vậy nhưng cả Kendrick và Eldering đều rất khiêm nhường (dường như là điều bắt buộc với nữ tại thời mà họ sống).

Sự dung hòa giữa tự tin và khiêm tốn giúp họ nhận được sự ủng hộ của thành phố Grand Rapids khi bắt đầu tiến hành thử nghiệm lâm sàng. 1.592 trẻ em đã tham gia, trong đó 712 trẻ được tiêm vaccine, 880 trẻ còn lại là nhóm đối chứng. Sau mỗi liều vaccine, hai nghiên cứu viên chính lo lắng chờ đợi cuộc gọi báo cáo một phản ứng bất lợi sau tiêm. Kendrick nhớ lại: “Tôi đã sợ chết đi được.” Nhưng những cuộc gọi như thế đã không tới. Và kết quả tích cực ban đầu đã được đưa ra: nhóm không được chủng ngừa có 63 trường hợp mắc bệnh, trong đó 53 trường hợp nghiêm trọng. Nhóm được chủng ngừa chỉ có 4 trường hợp mắc bệnh, đều nhẹ.

Kết quả khả quan tới mức không đáng tin

Ban đầu, giới quản lý y tế không tin vào kết quả khả quan như vậy. Vì ngay cả nhà dịch tễ học đáng kính James Doull của trường y khoa Case Western Reserve tại Cleveland thực hiện một nghiên cứu tương tự với một loại vaccine khác và không đạt được hiệu quả như vậy. Giới quản lý y tế đã yêu cầu nhà dịch tễ nổi danh Hampton Frost tại Đại học Johns Hopkins xem xét kết quả của hai nghiên cứu và đưa ra đánh giá. Ông đành miễn cưỡng thực hiện chuyến khảo sát đến Michigan. “Tôi thực sự nghi ngờ nghiên cứu của bà Kendrick đã không được thiết kế theo cách chuẩn mực”, ông viết. “Nghiên cứu thành công của bà Kendick có vẻ rất khả nghi”.

Khi đến thăm Grand Rapids, ông nhanh chóng thay đổi quan điểm và đánh giá cao sự cẩn trọng học thuật của Kendrick và Eldering. Ông đề xuất cải tiến thiết kế thử nghiệm lâm sàng, và nhóm của họ đã tiếp tục nghiên cứu. Công việc đòi hỏi số lượng nhân lực lớn hơn và các chuyến thăm khám thường xuyên hơn để theo dõi người bệnh trong vài năm.

Lần này, họ tranh thủ được sự giúp đỡ của đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt trong một chuyến thăm Grand Rapids vào năm 1936. Eleanor Roosevelt là một trong số ít những người ngoài cuộc dường như hiểu được tầm quan trọng của nghiên cứu này, Kendrick nhớ lại. Ngay sau đó, Cơ quan thúc đẩy tiến bộ nghiên cứu liên bang đã thêm ngân sách cho họ. Nghiên cứu mới thu hút 4.212 người tham gia thử nghiệm, và kết quả được lặp lại: nhóm được chủng ngừa có tỷ lệ mắc bệnh ho gà thấp hơn đáng kể so với nhóm không được tiêm. Tác dụng bảo vệ tương tự được kiểm chứng trong một thử nghiệm lâm sàng độc lập tại tiểu bang New York.


Bộ kit chứa một phiên bản đời đầu của vaccine Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván DTP những năm 1940, kèm theo tờ rơi giới thiệu lợi ích từ việc giảm thiểu số mũi tiêm cần thiết.

Năm 1944, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã chính thức thêm vaccine của Kendrick và Eldering vào danh sách chủng ngừa được khuyến nghị. Kết quả là tỷ lệ mắc bệnh ho gà tại Hoa Kỳ giảm một nửa chỉ trong một thập kỷ. Kendrick đã đến các quốc gia khác, từ quốc gia láng giềng Mexico cho đến đối thủ Liên Xô trong chiến tranh lạnh để giới thiệu vaccine, và đạt được thành công tương tự.

Để trẻ không phải tiêm quá nhiều lần, Kendrick và Eldering đã tìm cách phối hợp vaccine bạch hầu, ho gà, uốn ván làm một, và đây là tiền thân của loại vaccine hiện nay đang bảo vệ 85% trẻ em trên toàn thế giới. Để tiêu chuẩn hóa vaccine ở mọi nơi, Kendrick, Eldering và Margaret Pittman của Viện Y tế Quốc gia đã phát triển phương pháp kiểm tra bắt buộc mỗi lô vaccine ho gà toàn tế bào trên toàn thế giới. Và phương pháp chế tạo vaccine cũng được tiêu chuẩn hóa để trở nên đáng tin cậy và có thể tái lập.

Lịch sử quên lãng 

Dù đã dẫn đường cho chủng ngừa bệnh ho gà thời hiện đại nhưng điều đáng ngạc nhiên là thành tựu vĩ đại đó không làm cho Kendrick và Eldering trở nên nổi tiếng. Họ rất kín tiếng dù đã công bố hàng chục công bố khoa học khác nhau. Họ cũng không đặt tên vaccine ho gà Kendrick-Eldering giống như cách người ta đặt tên vaccine Salk phòng bệnh bại liệt. “Chúng tôi không tán thành quan điểm đó,” Eldering cho biết, “bởi có quá nhiều người tham gia và chúng tôi không muốn mình là người duy nhất được vinh danh. Nếu làm thế, phải đặt theo chuỗi toàn bộ tên những nghiên cứu viên. Thập niên 1970, khi phong trào nữ quyền chú ý đến những đóng góp từng bị lãng quên của phụ nữ, Kendrick và Eldering đã nhận được lời mời xuất hiện trên chương trình “Today” của đài NBC. Họ đã lịch sự từ chối.

Những đóng góp của Kendrick và Eldering có thể đã rơi vào quên lãng nếu không nhờ có Carolyn Shapiro-Shapin, giáo sư sử học tại Đại học Grand Valley State ở Grand Rapids nghe những người phụ nữ địa phương kể về phòng thí nghiệm của Kendrick và Eldering và công bố chúng trên các tạp chí học thuật năm 1990.

Có một lý do khác mà lịch sử đã suýt bỏ qua hai nhà y học tiên phong. Bởi nghịch lý của sự phòng ngừa: vaccine hoặc các biện pháp chăm sóc sức khỏe hiệu quả khiến công chúng dần quên đi căn bệnh nguy hiểm. Sau đó, vaccine lại trở thành mục tiêu công kích – mỗi khi có vài trường hợp tiêm vaccine gặp phải tác dụng phụ thực sự hoặc bị phóng đại lên cho có vẻ tồi tệ hơn căn bệnh mà nó chống lại.

Vaccine ho gà của Kendrick và Eldering là một trường hợp như thế. Theo Decker, chuyên gia về bệnh ho gà tại Vanderbilt, vaccine gây sốt và phản ứng tại vị trí tiêm, và một số rất ít trường hợp hiếm gặp gây ra các vấn đề thần kinh tạm thời. Các nhóm anti-vaccine cáo buộc nó gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng, mặc dù quy trình đánh giá khoa học đã bác bỏ hầu hết các cáo buộc. Loại vaccine này được cải tiến liên tục qua năm tháng, và kể cả trong thời kỳ của Kendrick và Eldering, chủng ngừa vẫn an toàn hơn đáng kể so với rủi ro mắc bệnh nhưng niềm tin của công chúng vào vaccine vẫn bị lung lay.

Năm 1997, vaccine toàn tế bào đã được thay thế tại Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển bằng vaccne vô bào có khả năng bảo vệ mạnh mẽ trong khoảng thời gian ngắn. Cùng với sự gia tăng mức độ chống đối vaccine, hiệu lực ngắn hạn đã khiến bùng phát bệnh ho gà tại Hoa Kỳ. Tình trạng bao phủ tiêm chủng yếu kém tại các quốc gia thu nhập thấp và trung bình cũng khiến căn bệnh vẫn tiếp tục hoành hành và giết chết khoảng 160,700 người mỗi năm, hầu hết là trẻ em. Con số tử vong có thể trở nên tồi tệ hơn: Vào năm 2020, ước tính có khoảng 23 triệu trẻ em bỏ lỡ lịch chủng ngừa ho gà, chủ yếu là do đại dịch COVID-19.

Để sớm có câu trả lời cho những vấn đề này. Locht, nhà nghiên cứu tại Viện Pasteur, đã phát triển một loại vaccine toàn tế bào mới và có thể đi vào thử nghiệm lâm sàng pha 3 đầu năm 2022. Ông vô cùng ngưỡng mộ Kendrick và Eldering. Vaccine mới khác với vaccine của họ: không làm chết vi khuẩn, thay vào đó, biến đổi gene khiến vi khuẩn  còn sống nhưng vô hại; không cần tiêm vào bắp tay, mà chỉ cần xịt vào mũi. Ngoài tính dễ sử dụng và tránh được cảm giác sợ kim tiêm, vaccine cũng không cần bảo quản lạnh. Chúng rất thuận tiện để phân phối đến những vùng xa xôi hoặc thiếu thốn. Nếu mọi việc suôn sẻ, vaccine của Locht có thể được chính thức đưa vào sử dụng trong ba năm tới.

Trong khi đó, các phòng thí nghiệm tiểu bang như nơi Kendrick và Eldering từng làm việc, đang gặp khó khăn. Đây cũng là hệ quả nghịch lý từ sự thành công: những tiến bộ y học đã loại bỏ phần lớn các căn bệnh truyền nhiễm ra khỏi các mối bận tâm của cộng đồng, từ bệnh đậu mùa đến bại liệt, các chính phủ đã cắt giảm ngân sách y tế công cộng và sa thải nhân viên. Các nguồn tài trợ khẩn cấp giải quyết các đợt bùng phát H1N1 hay Zika cũng nhanh chóng kết thúc theo sau sự chấm dứt của bệnh dịch. Và khi đại dịch COVID-19 ập đến, chúng ta không có đủ nhân viên để thực thi các biện pháp an toàn, xử lý nhanh chóng các xét nghiệm hoặc công tác chủng ngừa. Frances Pouch Downes, nguyên Giám đốc Phóng thí nghiệm y tế Công cộng của tiểu bang Michigan lo lắng: “Chúng ta sẽ cứ vấp phải hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác, thay vì xem đây là một dịch vụ thiết yếu. Chuyện này cũng tương tự như việc xóa sổ một sở cứu hỏa vì chả mấy khi xảy ra cháy nhà”.
Kendrick qua đời vào năm 1980 và không quan tâm việc mình làm có thể bị rơi vào quên lãng hay không. Nhưng chúng ta thì nên nhớ.

Cho đến ngày nay, người ta ước tính có thể hàng chục triệu người trên thế giới đã được cứu sống nhờ vaccine ho gà của bà. “Hãy kể tên những người đang sống hôm nay có thể đã chết vì bệnh ho gà nếu không được tiêm vaccine của Pearl Kendrick?” Đồng nghiệp Richard  Remington của Kendrick đã viết như thế trong bản tin của Trường y tế Công cộng thuộc Đại học Michigan. “Không, tôi và bạn, đều không thể kể những cái tên,…bởi thành tựu của công tác phòng bệnh chỉ đong đếm thông qua thống kê và dịch tễ học. Đó không phải là tin tức thời sự để mọi người chú ý”.□

Cao Hồng Chiến lược dịch
Nguồn bài và ảnh: https://www.smithsonianmag.com/science-nature/unsung-heroes-ended-deadly-plague-180979547/

Tác giả