Phản biện GS Hồ Ngọc Đại về giáo dục (4)

Ở Phần 4 này, tôi muốn nói đến một chuyện khác, hơi lạc đề, nhưng để đề cập một câu hỏi quan trọng: sự đi lên của giáo dục là quá trình tiến bộ liên tục từng bước (theo quan điểm của tôi), hay là cần một cú “đại nhảy vọt” từ “lối cổ điển” sang lối “công nghệ giáo dục” theo như GS Hồ Ngọc Đại?

Theo tôi, điểm quan trọng nhất của giáo dục, và cũng là điểm mạnh nhất của GS HNĐ, chính là sự thương yêu dành cho trẻ em: trẻ em hoc được tình yêu thương chủ yếu không phải bằng các bài học trong sách vở về đạo đức, mà qua sự cảm nhận cách đối xử của cha mẹ, thầy cô và những người khác với chúng. Khó ai vượt được thầy Đại ở điểm này. Còn việc GS HNĐ đưa vào chương trình cấp 1 “toán cao cấp” và những thứ “trừu tượng chủ nghĩa” khác (mà ở nước ngoài người ta cũng từng dùng rồi bỏ) có lẽ là do ông bị ảnh hưởng của trào lưu này một thời thịnh hành đúng vào lúc ông làm NCS ở Nga. Như GS HNĐ có nói, nền giáo dục VN đang khủng hoảng. Nhưng muốn “chữa được bệnh” thì phải “bốc đúng thuốc”. Điều làm tôi e ngại là thang thuốc của GS HNĐ nửa đúng nửa sai, có nhiều điểm cực đoan.  Một số nhà khoa học và giáo dục có uy tín của VN  khi trao đổi với tôi cũng bày tỏ sự lo ngại tương tự.

Các luận điểm chính của “công nghệ giáo dục” của GS HNĐ có được TS Nguyễn Văn Vịnh giới thiệu trong  bài báo “Hủy bỏ “triết lý đọc-chép” bằng công nghệ giáo dục?”1 năm 2009, với 6 cụm luận điểm chính (xem phụ lục phía cuối bài này – trong 3 phần trước của loại bài này tôi đã phản biện một số trong các luận điểm này). Ngay sau đó, đại tá TS Đỗ Kiên Cường (một chuyên gia về vật lý sinh vật học) đã viết một bài dài rất đáng tham khảo,  gồm hai phần “Giáo dục hơn là một công nghệ!”2 và “Giáo dục còn là một nghệ thuật”3,  đưa ra nhiều lý lẽ xác đáng phản biện lại các luận điểm chính của “CNGD”. Ở Phần 4 này, tôi muốn nói đến một chuyện khác, hơi lạc đề, nhưng để đề cập đến một câu hỏi quan trọng: sự đi lên của giáo dục là quá trình tiến bộ liên tục từng bước (theo quan điểm của tôi), hay là cần một cú “đại nhảy vọt” từ “lối cổ điển” sang lối “công nghệ giáo dục” theo như GS Hồ Ngọc Đại ?

Chuyện cái xe đạp

Sự phát minh ra xe đạp hay được GS HNĐ dùng như là ví dụ về một cách mạng về tư duy, hàm ý so sánh với “tính cách mạng” của ” công nghệ giáo dục” của ông. Chẳng hạn, một bài viết nhan đề “Nguyên Lý” của ông năm 2000 (NXB Lao Động) mở đầu bằng đoạn:

Cho đến cuối thế kỷ trước, 1888, nghĩa là sau hàng triệu năm, cái sự đi bộ hai chân mới bị nghi ngờ. Câu chuyện như sau: có một anh chàng ngông nào đó, dám ngờ rằng cỗ xe 4 bánh đã thừa một nửa, thừa cả 4 cái chân bò kèm theo. Thực ra so với cái ngông của con khỉ không cần đến 4 chân để đi, chỉ hai chân là đủ, thì đã ăn thua gì cái ngông lần này! Nhưng lần này, anh chàng người nọ bị thách thức nhiều hơn vì loài người có ngôn ngữ và ý thức, có các phương tiện truyền thông và có tổ chức… để chế diễu, bêu rếu, thậm chí lên án, mạt sát … Tôi hình dung hoàn cảnh tội nghiệp của anh chàng nọ tìm cách minh oan bằng thực tiễn: thử làm ra chiếc xe hai bánh. Chắc không ít người cười ồ lên, khi thấy anh ta chập choạng trên xe hai bánh, rồi ngã kềnh, trầy da, chảy máu. Biết đâu còn có kẻ ác mồm: đáng kiếp cái thói ngông, kiêu ngạo! May sao, anh chàng nọ không tự ái vặt, không chấp sự trả thù của thói quen, cứ lo làm cho được chiếc xe đạp.

Trong một bài giảng nhan đề “Triết học và lịch sử”4 của ông cho học viên trường viết văn Nguyễn Du gần đây, chiếc xe đạp cũng được mang ra:

Con khỉ đầu tiên đi bằng hai chân, thể nào cũng bị đồng loại phê bình, họp kiểm điểm mạnh lắm. Cũng như cái anh đầu tiên nghĩ tới việc đi xe đạp, khác hẳn việc cưỡi ngựa hoặc đi xe ngựa (vẫn là dùng sức bộ), chắc chắn sẽ bị hàng xóm cười: “Thể nào nó chẳng ngã?”. Nhưng có xe đạp, loài người mới được giải phóng tư duy, rồi mới có ô tô, máy bay, đỡ sức.

Những đoạn như trên kích thích sự tò mò của tôi, vì theo trực giác chủ quan của tôi, thì một thứ như là chiếc xe đạp là tổng hợp của rất nhiều tiến bộ công nghệ, sáng chế, trong một quá trình lịch sử dài, và thời điểm nó xuất hiện và được chấp nhận phải ứng với hoản cảnh bên ngoài thuận lợi (đường xá đủ phẳng, công nghệ vật liệu khiến có thể làm xe đủ nhẹ đủ bền và đi đủ nhanh, v.v.), chứ không phải là do “cách mạng về tư duy” tạo thành. Vì tò mò nên tôi đi tìm đọc về lịch sử xe đạp, và kết quả như sau:

Xe đạp 2 bánh thực ra không phải đến năm 1888 mới xuất hiện, mà là xuất hiện từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Năm 1888 là năm Dunlop sáng chế ra lốp cho xe đạp như ta dùng ngày nay, và có lẽ GS HNĐ nhầm lẫn về thới điểm sáng chế ra lốp với thời điểm phát minh ra xe đạp. (Dunlop hiện vẫn là một thương hiệu lốp lớn trên thế giới). Bản thân phát minh của Dunlop dựa vào phát minh năm 1844 đó của Goodyear (mà ngày nay cũng là một thương hiệu lốp lớn) về làm nóng cao su cho dẻo ra.

Nói đến công nghệ xe đạp, không thể bỏ qua bánh xe. Theo nhiều tài liệu, bánh xe hình tròn có trục ở giữa đã có từ ít ra 3.500 năm trước công nguyên. Khó hình dung làm sao thời La Mã người ta vận chuyến được các tảng đá nặng hàng tấn để xây các công trình đồ sộ bằng đá nếu không có bánh xe. Công nghệ bánh xe dần thay đổi từ bánh xe bằng đá, bằng gỗ đặc, đến bánh xe bằng các vật liệu khác và “rỗng” (có vành trong vành ngoài và có các thanh nối hai vành) nhẹ hơn trước, rồi có lốp (đi được nhanh hơn hẳn vì ít bị cọ sát mặt đường hơn), là một quá trình phát triển dài. Một công nghệ quan trọng khác xuất hiện trong xe đạp và trong nhiều loại xe cộ máy móc khác là cái xích để truyền lực (roller chains). Xích bằng kim loại có từ trước công nguyên. Từ thế kỷ 17, họa sĩ và nhà sáng chế thiên tài Leonardo de Vinci có vẽ phác thảo các xích truyền lực, và đến năm 1880 thì xích xe đạp được một người tên là Renold sáng chế. Những chiếc xe đạp đầu tiên thì không có xích (lấy chân đạp đất, hoặc có đạp vào bàn đạp nhưng bàn đạp gắn liền bánh xe).

Ngoài ra còn có thể kể đến rất nhiều yếu tố khác của chiếc xe đạp, được sáng chế vào các thời điểm khác nhau. Ví dụ như là bộ phận chuyển tốc độ, bộ phận trợ lực, v.v. Cho đến ngày nay, cái xe đạp vẫn tiếp tục được cải tiến, hoàn thiện theo nhiều hướng khác nhau, và vẫn là một công cụ đi lại rất thuận tiện trong nhiều tình huống. Một trong các cải tiến thú vị, nhưng rất tiếc là ít phổ biến, là loại xe đạp ngả lưng (tiếng Pháp: vélo couché). Loại xe này cho phép vừa đạp nhanh hơn, vừa có vị trí ngồi thoải mái hơn, là loại xe thông dụng. Loại xe này khi đem ra đua xe đã thắng đứt đuôi loại xe đạp “bình thường”, nhưng các nhà sản xuất xe bình thường bèn lobby để cấm không dùng loại xe này trong các cuộc đua xe truyền thống, và điều đó làm cản trở sự phát triển loại xe này, khiến nó trở nên ít được dùng.

Nếu như trước thế kỷ 19, người ta không dùng các loại xe “dễ đổ” như là xe đạp 2 bánh, thì không phải là do người ta không thể nghĩ đến, mà là do điều kiện công nghệ chưa cho phép. Mà xe ngựa chạy nhanh hơn xe đạp nhiều, kể cả thời nay, nên tôi không thể đồng ý với quan điểm của GS HNĐ là “xe đạp mới giải phóng tư duy con người, rồi sau mới có ô tô, máy bay đỡ sức”.  Khi điều kiện công nghệ cho phép, thì không những người ta nghĩ ra xe đạp 2 bánh, mà còn nghĩ ra cả xe 1 bánh. Những xe một bánh đầu tiên xuất hiện từ những năm 1860. Xe 1 bánh chủ yếu làm dụng cụ tiêu khiển chứ không thể phổ biến như xe 2 bánh (trong đó 1 bánh dùng để đẩy xe còn 1 bánh để chỉnh hướng xe), một phần vì việc điều khiển hướng đi khó hơn là xe 2 bánh. Nói đến xe đạp, cũng có thể nhắc đến các xe 3 bánh. Chiếc xe 3 bánh đầu tiên được một người Đức tên là Faffler sáng chế từ năm 1680, và do ông này bị liệt chân, nên thay vì đạp chân, xe của ông ta dùng quay tay (crank) và các răng cưa (gears). Vào cuối thế kỷ 18, có loại xe đạp 3 bánh do hai nhà sáng chế của Pháp là Blanchard and Maguire nghĩ ra và trở nên thông dụng đến mức người ta đặt tên “bicycle” và “tricycle” vào thời đó để phân biệt xe 2 bánh với xe 3 bánh.

Xe 3 bánh hay 4 bánh không có gì là “lạc hậu” hơn xe 2 bánh về mặt tư duy: mỗi loại xe thích hợp với một loại hoàn cảnh môi trường và công nghệ khác nhau, và có các mặt yếu mặt mạnh khác nhau. Sau khi người ta làm xe máy 2 bánh chán đi, thì mốt mới ngày nay lại là loại xe máy 3 bánh với khoảng cách giữa 2 bánh ở đầu khá hẹp. Xe này gọn nhẹ tương tự xe 2 bánh, mà lại an toàn ổn định tương tự như xe 3-4 bánh. Chiếc xe đạp cũng chỉ là một phần trong sự tiến bộ của loài người về giao thông vận tải nhằm “giải phóng con người” (nói theo GS HNĐ). Còn phải kể đến các thứ khác, ví dụ như là tàu thủy: ở châu Âu trong những thế kỷ trước, người ta đào kênh làm đường cho tàu thủy đi, và đây là cách vận tải có chi phí năng lượng thấp nhất.

Một thứ “tương đối đơn giản” như là cái xe đạp mà còn là tổng hợp của một quá trình tiến bộ về công nghệ rất dài chứ không phải là kết quả của một bước “đại nhảy vọt” nào, thì một thứ phức tạp hơn nhiều lần như là hệ thống giáo dục càng đòi hỏi một quá trình đi lên rất dài, với tổng hợp sự tiến bộ từ nhiều lĩnh vực khác nhau (công nghệ thông tin, thần kinh học, các khoa về xã hội, về tổ chức quản lý, v.v.), chứ không thể có phép màu nào khiến nó “nhảy cóc từ lớp 1 lên đại học” như là viễn tưởng “công nghệ giáo dục” được.

Các luận điểm chính của CNGD của Hồ Ngọc Đại (theo bài viết  “Hủy bỏ “triết lý đọc-chép” bằng công nghệ giáo dục?”5 của Nguyễn Văn Vịnh):

1. Giáo viên thiết kế, học sinh thi công, thầy tổ chức trò hoạt động thay cho giáo viên giảng giải học sinh nhắc lại. Nguyên lý vận hành được tóm gọn trong công thức A → a. Thành phần A gồm ba dạng khoa học, nghệ thuật và niềm tin. Mũi tên là quy trình tổ chức để học sinh có thể tự chiếm lĩnh A và có được cái A riêng trong tinh thần của từng em.

2. Phương pháp giáo dục không phải là cách giảng dạy mà là phương pháp để trẻ em chiếm lĩnh thực tại, chiếm lĩnh đối tượng khoa học, đi lại con đường nhà bác học đã đi, đi lại con đường người nghệ sĩ đã đi, không buộc trẻ tiếp nhận chân lý có sẵn. Điểm cốt yếu của phương pháp tiếp cận vấn đề là tìm ra nguyên lý, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen là tìm về cách mà các nhà khoa học ngày xưa đã thật sự đi qua để khám phá ra lời giải.

3. Nguyên lý của phát triển bài học là đi từ trừu tượng đến cụ thể, nâng nấc thang trừu tượng kế tiếp nhau để đi đến trình độ cụ thể ngày càng cao hơn. Từ phát triển hiện thực vật chất đến phát triển tư duy trong tâm lý và khái niệm. Rồi từ phát triển trong hợp tác với thầy giáo đến phát triển độc lập, từ trong giáo dục nhà trường đến ngoài khuôn khổ nhà trường.

4. Quá trình hình thành bài học là hành động phân tích tìm ra logic của khái niệm, hành động diễn đạt logic và phát hiện dưới các mô hình khác nhau và cuối cùng là hành động “chuyển vào trong”, tức là hiểu và có thể hành động.

5. Thiết kế là xác định mục đích (thí dụ đọc được chữ, làm được toán cộng với con số từ 1 tới 10), thao tác cần làm và phương tiện cần thiết để học sinh tự hành động chiếm lĩnh tri thức, và đánh giá kết quả học tập.

6. Giáo án là kế hoạch tổ chức cho học sinh làm, là bản thiết kế làm việc, rành rọt cái gì làm trước cái gì làm sau, thầy làm gì, trò làm gì, tức là phù hợp với từng học sinh. Giáo án không phải là cái thầy đọc cho học sinh chép. Sách giáo khoa chỉ là biên bản quá trình làm và kết quả làm việc giữa thầy và trò.

1/ http://www.vietnamplus.vn/Home/Huy-bo-triet-ly-docchep-bang-cong-nghe-giao-duc/20099/17866.vnplus

2/ http://thethaovanhoa.vn/132N20091012052054711T0/giao-duc-hon-la-mot-cong-nghe!-bai-1-chi-nghe-si-moi-co-nhu-cau-lap-lai-thao-tac-cua-mozart.htm

3/ http://tintuc.xalo.vn/00517334982
/Giao_duc_la_mot_cong_nghe_Bai_2_Giao_duc_con_la_mot_nghe_thuat.html

4/ http://dayvahoc.blogspot.fr/2009/05/triet-hoc-va-lich-su-ho-ngoc-ai.html

5/ http://www.vietnamplus.vn/Home/Huy-bo-triet-ly-docchep-bang-cong-nghe-giao-duc/20099/17866.vnplus

Tác giả