Tư tưởng Khổng giáo trong giáo dục đại học Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc (TQ) trong những năm gần đây đã thiết lập hàng trăm Học viện Khổng Tử trên toàn thế giới được chính phủ TQ tung hô như những giá trị cốt lõi của TQ hiện đại. Vậy thực tế chính phủ TQ đã phát triển tư tưởng Khổng giáo như thế nào trong giáo dục đại học?
Đầu tư cho giáo dục đại học
Phần lớn các hộ gia đình ở TQ và Việt Nam đều muốn đầu tư cho con em mình được vào đại học nên không quản lao động khó nhọc để gởi con em vào các lớp luyện thi, ra nước ngoài du học hoặc buộc các em học thêm từ… thuở lên ba để có thể vào các trường điểm nhằm “nở mặt nở mày” với thiên hạ và có lẽ trên hết là để… đổi đời. Theo thống kê TQ, vào năm 2005, chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục là 35% (Rong, 2009). Ở Mỹ là 34% cho thấy có một số nét tương đồng giữa hai quốc gia về chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục. Tuy nhiên vai trò của tài trợ công lập cho giáo dục đại học ở Mỹ khác hẳn so với truyền thống của quốc gia Khổng giáo này. Một số quỹ tài trợ tư thục xuất phát từ các mạnh thường quân (hiến tặng) chứ không phải từ các hộ gia đình, đặc biệt các trường thuộc nhóm tinh hoa. Chính phủ hỗ trợ một phần lớn kinh phí cho các trường bậc thấp hơn của các cơ sở công lập như cho các trường cao đẳng cộng đồng ở Mỹ và cho các trường nghề (TAFE) ở Úc. Còn ở TQ và Việt Nam, nhiều cơ sở giáo dục đại học tư thục phải tự thân vận động dựa trên nguồn thu chủ yếu là học phí nên việc tối đa hóa lợi nhuận là điều khó tránh khỏi. Vai trò của chi tiêu gia đình dành cho giáo dục được khuyến khích tối đa ở các quốc gia đang phát triển trong hệ thống Khổng giáo đã thúc đẩy tư nhân hóa cao độ trong giáo dục đại học nhằm có thể chia sẻ gánh nặng với nhà nước. Tuy nhiên, việc này đã vô tình đẩy người dân vào hoàn cảnh khó khăn hơn vì chính phủ một số quốc gia lợi dụng chiêu bài “chia sẻ chi phí” để từ bỏ vai trò của mình trong việc tài trợ và đầu tư cho giáo dục đại học (Chapman & Austin, 2002)3.Bài học nào cho Việt Nam?
Do mô hình Khổng giáo là sự kết hợp quyền lực quản lý nhà nước trung ương tập quyền theo dạng “quân xử thần tử” nên sẽ bóp chết đi sự sáng tạo và quyền tự chủ là đặc trưng vốn có của các trường đại học. Song song đó, ở Việt Nam, do ảnh hưởng của văn hóa tiểu nông và trọng tình nghĩa, một xã hội đặc trưng của “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình” vốn đi lên từ tàn dư của chủ nghĩa phong kiến lỗi thời với tư duy phản biện kém, thiếu tôn trọng qui luật khách quan và các bằng chứng duy lý, cũng như xem “vua là thiên tử” nên việc phải nhất nhất tuân theo “lệnh vua” đã hằn sâu trong trí não của tất cả người dân và ngay cả trong giới nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, là một quốc gia Á Đông vốn nổi tiếng về “quyền lực cao” (high power distance) và sự “e sợ cao” (high uncertainty avoidance) (Hofsted, 2001)4 nên việc phải “tu thân” và “tự kiểm duyệt” bản thân trước khi viết và công bố một sản phẩm khoa học nào, đặc biệt là khoa học xã hội là việc buộc phải làm vì đây là luật bất thành văn. Việc kêu gọi “chia sẻ học phí”, hay tăng học phí thông qua hình thức “xã hội hóa” nhưng thiếu sự tài trợ và điều phối của nhà nước sẽ làm gia tăng bất bình đẳng xã hội đối với những gia đình nghèo, nói cách khác là cùng một mức học phí cho tất cả các đối tượng mà không căn cứ vào mức thu nhập và hoàn cảnh gia đình sẽ dẫn đến hiện tượng lấy của người nghèo… chia cho người giàu. Chính sách học phí bất hợp lý hiện nay khiến tăng thêm khoảng cách bất công: 35% phần tài trợ của ngân sách nhà nước chảy vào lớp con em của 20% dân cư giàu nhất nhưng chỉ 15% chảy vào con em của 20% dân cư nghèo nhất5. Mặc dù ngân sách nhà nước năm 2012 cho ngành giáo dục, so với năm 2011, tăng 5,4% và đạt gần 5.800 tỷ đồng6, trong đó giáo dục đại học chiếm khoảng 10% nhưng theo Gs. Đào Trọng Thi, do “hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học còn hạn chế và cụ thể là cơ chế phân bổ kinh phí từ ngân sách Nhà nước mang tính bình quân, dàn trải và chưa thực sự gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng, công tác quản lý đầu tư còn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý theo ngành”. Ngoài ra, Ông cũng cho biết “5 năm trước (thời điểm 2005), cấp kinh phí 6 triệu đồng/một sinh viên cho trường công. Sau đó lại cho phép các trường công tuyển sinh vượt chỉ tiêu, trong khi số kinh phí từ ngân sách không thay đổi. Bởi vậy, trên thực tế suất đầu tư cho sinh viên nhiều trường chỉ được khoảng 2,5 triệu đồng/sinh viên/năm”7. Một lý do quan trọng khác dẫn đến nhiều bất cập trong việc đầu tư cho giáo dục đại học là việc thành lập trường, nhất là các trường công lập tại nhiều địa phương còn dễ dãi dẫn đến việc “đầu tư cho giáo dục đại học bị dàn trải, manh mún” bởi “kết quả giám sát của Quốc hội cho thấy, từ 1998 – 2009, đã có 312 trường đại học, cao đẳng được thành lập, trong đó có 64 trường được thành lập mới hoàn toàn, còn lại là nâng cấp từ bậc học thấp hơn. Nhờ đó, 35/63 tỉnh, thành phố có thêm trường đại học, cao đẳng mới. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến bất cập là quy mô đào tạo vượt xa năng lực đào tạo và suất đầu tư cho sinh viên cũng rất thấp, trong khi đó là một trong những tiêu chí rất quan trọng”8. Song song đó là lối thi cử thực dụng cứng nhắc mà thí sinh được xem như những “chú cá chép vượt vũ môn để hóa rồng”, tức chỉ chú trọng đến đầu vào (inputs) mà quên đi quá trình đào tạo (processes) và chất lượng đầu ra (outputs) trong khi cả ba yếu tố này đều rất quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao bởi “không thể có một cỡ giày cho tất cả các loại bàn chân”. Từ những phân tích trên, có thể thấy mô hình Khổng giáo sẽ phát huy tác dụng rất lớn nếu có sự kết hợp nhuần nhuyễn với những tư tưởng tiến bộ của phương Tây. Tuy nhiên, mô hình này nếu đứng một mình sẽ nảy sinh nhiều hạn chế và sẽ chắc chắn sẽ gặp nhiều thách thức trong tương lai như rất khó để nâng cao chất lượng các trường đại học tư thục nếu nhà nước tiếp tục đứng ngoài và chối bỏ trách nhiệm tài trợ cho các trường.—
1. Mok, K.-H. (2009). When neo-liberalism colonizes higher education in Asia: Bringing the ‘‘public’’ back into the contemporary university. Unpublished paper. Centre for East Asian Studies, University of Hong Kong, Hong Kong.
2. Gibbons, M., Limoges, C., Nowotny, H., Schwartzman, S., Scott, P., & Trow, M. (1994). The new production of knowledge: The dynamics of science and research in contemporary societies. London: Sage
3. Chapman, D., & Austine, A. (Eds.). (2002). Higher Education in the Developing World: Changing Contexts and Institutional Responses. Westport, Connecticut, London: Greenwood Press
4. Hofstede, G. H. (2001). Culture’s consequences: comparing values, behaviours, institutions, and organizations across nations. Thousand Oaks: Sage Publications
5. http://lypham.net/joomla/index.php?option=com_content&task=view&id=226&Itemid=2
6. http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/giao-duc/2011/12/chi-ngan-sach-5-800-ty-dong-cho-giao-duc-trong-nam-2012/
7. http://vneconomy.vn/201006061123236P0C9920/dau-tu-cho-giao-duc-dai-hoc-dang-bi-chia-nho.htm
8. Như 2