Tuyển sinh xong lại… đóng cửa ngành
17g ngày 10-10, thời hạn nhận hồ sơ đăng ký xét tuyển cuối cùng của kỳ tuyển sinh ĐH -CĐ năm 2011 kết thúc. Hàng loạt trường phải ngậm ngùi tạm đóng cửa ngành do có quá ít thí sinh trúng tuyển. Chưa năm nào số trường, số ngành phải đóng cửa nhiều như năm nay.
Ngay khi kết thúc nguyện vọng (NV) 1, ĐH Đà Nẵng đã thông báo không mở hai ngành kinh tế chính trị và thống kê tin học. Tương tự, Trường ĐH Phạm Văn Đồng cũng không thể mở ngành tài chính ngân hàng và Trường ĐH Phú Yên quyết định đóng cửa ngành tin học sau khi kết thúc NV1.
Vét cạn thí sinh
TS Hoàng Hữu Hòa – trưởng ban khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH Huế – cho biết có thể một số ngành như lịch sử, Hán Nôm, tin học, toán tin ứng dụng, triết học… sẽ không mở được trong năm nay. Trường sẽ vận động thí sinh chuyển sang ngành khác cùng khối thi và điểm chuẩn. Trường ĐH Nha Trang với thế mạnh về các ngành đào tạo kỹ thuật hàng hải, nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, thế nhưng những năm gần đây số lượng thí sinh trúng tuyển nhóm ngành này cứ teo tóp dần.
Kỳ tuyển sinh năm nay, trường buộc phải đóng cửa hai ngành kỹ thuật khai thác thủy sản, kinh tế và quản lý thủy sản sau khi xét tuyển NV2. Tương tự, Trường ĐH Quy Nhơn cũng tạm ngừng tuyển sinh ngành tâm lý giáo dục sau khi xét tuyển NV2 bởi chỉ có năm thí sinh trúng tuyển.
Không chỉ các ngành nhóm kỹ thuật, khoa học cơ bản, năm nay rất nhiều ngành sư phạm cũng bị thí sinh ngó lơ và một số trường không còn cách nào khác là phải đóng cửa ngành. TS Nguyễn Văn Đệ – hiệu trưởng Trường ĐH Đồng Tháp – cho biết kỳ thi tuyển sinh năm nay trường phải đóng cửa các ngành sư phạm kỹ thuật công nghiệp, sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, khoa học thư viện và công nghệ thiết bị trường học (bậc CĐ).
Nhiều ngành khác vẫn gắng gượng mở ngành khi lượng thí sinh trúng tuyển chỉ đạt khoảng 50% chỉ tiêu. Ở khối trường công lập, Trường ĐH An Giang là đơn vị có số ngành phải đóng cửa nhiều nhất, trong đó có ba ngành đóng cửa sau khi kết thúc NV1 gồm sư phạm tin học, sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, sư phạm kỹ thuật công nghiệp. Trong khi đó, các ngành sư phạm vật lý, sư phạm hóa học, sư phạm địa lý và chăn nuôi thú y dù đã phải xét tuyển đến NV3 nhưng vẫn không có thí sinh và trường cũng buộc phải đóng cửa các ngành này.
Ở khối trường ngoài công lập, tình hình cũng không mấy khả quan. Trường ĐH Quang Trung (Bình Định) chỉ tuyển được khoảng 2/3 chỉ tiêu. Lần đầu tiên trường này buộc phải đóng cửa hai ngành công nghệ thông tin, kinh tế và quản lý môi trường. Trường ĐH Yersin (Đà Lạt) cũng trong tình cảnh tương tự.
Các ngành công nghệ thông tin và công nghệ sinh học có thể rất “hot” ở nhiều trường khác nhưng lại vắng thí sinh ở trường này và trường phải dừng tuyển sinh trong năm nay. Với thế mạnh và có truyền thống về các ngành xã hội nhưng nhiều năm nay nhóm ngành này ở Trường ĐH Văn Hiến TP.HCM lại rất thưa thớt thí sinh. Ông Trần Chút – phó hiệu trưởng Trường ĐH Văn Hiến – cho biết trong kỳ tuyển sinh năm nay, hai ngành văn học và xã hội học nhiều khả năng sẽ phải đóng cửa.
“Các ngành sư phạm, kể cả các ngành sư phạm cơ bản, bị ghẻ lạnh là điều đáng báo động. Nhà nước cần có chính sách để phát triển các ngành này, nếu không sẽ có tác động không tốt đến sự phát triển chung của hệ thống giáo dục.”
TS HOÀNG CUÂN QUẢNG (phó hiệu trưởng ĐH An Giang) |
Khó khăn trong tuyển sinh đến mức phải đóng cửa ngành không phải là điều nằm ngoài dự liệu của các trường. Bởi vậy, ngay từ khi mới bắt đầu “cuộc đua” tuyển sinh, nhiều trường đã tung ra nhiều chiêu thu hút thí sinh. Trong đó, nhiều trường bất chấp cả những chiêu thức phản cảm để vơ vét thí sinh.
Tặng tiền cho thí sinh, trả tiền “môi giới” cho những ai giới thiệu được thí sinh đến trường nhập học là những chiêu được nhiều trường ĐH tung ra trong tuyển sinh năm nay. Trường ĐH Lương Thế Vinh (Nam Định), Trường ĐH Thái Bình Dương (Khánh Hòa) đều có chính sách “động viên” các đơn vị nếu làm tốt việc khuyến khích thí sinh đăng ký xét tuyển vào trường, trường gửi tiền tặng đến từng đơn vị với số tiền 250.000 đồng/thí sinh.
Cũng nhằm “giành giật” thí sinh, một số trường đã ép thí sinh không trúng tuyển bậc ĐH vào học bậc CĐ của trường dù thí sinh không có nguyện vọng. Thậm chí thí sinh đến trường đòi, trường kiên quyết không trả để thí sinh xét tuyển vào trường khác. Trong khi đó, Trường ĐH Trà Vinh dành 500 chỉ tiêu liên kết đào tạo theo địa chỉ ở hàng loạt điểm ở Đồng Nai, Sóc Trăng, Long An. Việc “bán chỉ tiêu” này được tổ chức hoàn toàn sai với hướng dẫn về đào tạo theo địa chỉ của Bộ GD-ĐT.
Tuy nhiên, đáng kể nhất là hàng loạt trường bất chấp quy chế tuyển sinh, làm méo mó công tác xét tuyển, vơ vét người học bằng đủ mọi giá. Trường ĐH Đông Á (Đà Nẵng) tự ý giảm điểm sàn khi tặng 0,5 điểm cho thí sinh xét tuyển vào trường!
Cũng để vơ vét thí sinh, Trường CĐ Viễn Đông nhận hồ sơ nhập học của thí sinh khi chưa hết thời gian xét tuyển NV2. Nghiêm trọng hơn cả là Trường CĐ Công nghệ Bắc Hà (Bắc Ninh) liên kết với Trung tâm Đào tạo các vấn đề kinh tế hiện đại (CMET) ở quận 4, TP.HCM với hình thức tuyển sinh bậc CĐ chính quy hoàn toàn không theo quy chế hay quy định nào hiện hành.
Theo thông báo, nơi đây bắt đầu nhận hồ sơ xét tuyển từ ngày 5-8 (trước quy định 20 ngày), xét tuyển đợt 1 từ ngày 15 đến 18-8 và đợt 2 từ 25-8 đến 15-9! Không những thế, trường này còn thản nhiên vận dụng điều 33 quy chế tuyển sinh dù chẳng có trụ sở hay đào tạo nhân lực cho TP.HCM! Thậm chí nơi này còn tuyển cả thí sinh dưới điểm sàn. Tuy đã tung đủ chiêu nhưng rất nhiều trường vẫn “đói” thí sinh.
Theo TS Phạm Thị Ly – Trung tâm Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ĐHQG TP.HCM, bức tranh chung là những ngành phải đóng cửa không chỉ bao gồm khoa học xã hội và nhân văn, các ngành kỹ thuật như nông nghiệp, chăn nuôi mà cả các ngành từng thu hút nhiều thí sinh như kinh tế, ngoại ngữ… ở một số trường cũng không có đủ người để mở lớp. Hậu quả tức thời là tặng điểm, treo thưởng, khuyến mãi cùng nhiều “tiểu xảo” để thu hút thí sinh, những hiện tượng chỉ góp thêm sự bát nháo vào một hệ thống vốn đã nhiều bất cập. Hậu quả lâu dài và nghiêm trọng hơn là lãng phí nguồn lực của giáo dục và nhất là tạo ra tác động tiêu cực cho việc đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong tương lai. |
Đại học mọc như nấm
Chuyện hàng loạt trường phải đóng cửa ngành hiện nay là điều đã được nhiều chuyên gia giáo dục cảnh báo từ những cuộc đua mở ngành, mở trường ĐH, CĐ.
Từ năm 1998-2009, có 307 trường ĐH, CĐ được thành lập mới hoặc nâng cấp (chưa tính các trường sĩ quan quân đội, công an, các trường ĐH, CĐ thành viên, khoa trực thuộc, phân hiệu của các ĐH). Tính đến hết năm 2009, cả nước có 409 trường ĐH, CĐ trong đó có 76 trường ngoài công lập. Đến nay 62/63 tỉnh, thành có ít nhất một trường ĐH hoặc CĐ (chỉ còn Đắk Nông là tỉnh duy nhất chưa có trường ĐH, CĐ). Riêng hai năm 2010-2011 đã có khoảng 20 trường ĐH được thành lập trên cơ sở nâng cấp các trường CĐ hoặc thành lập mới và nhiều trường ĐH đang trong quá trình xem xét cho thành lập.
Trong khi quy mô đào tạo ở tất cả các bậc học và hệ đào tạo tăng nhanh thì các điều kiện cơ bản như cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, giáo trình cơ bản… để đảm bảo chất lượng đào tạo lại không theo kịp. Đặc biệt, nhiều trường mới được thành lập nhưng đã tuyển sinh với quy mô lớn vượt xa năng lực đào tạo.
Nhiều chuyên gia giáo dục nhận định việc thành lập trường ĐH, CĐ trong vài năm gần đây phát triển theo số lượng, chạy theo quy mô đào tạo và thành tích của bộ, ngành, địa phương mà chưa chú ý tới quy hoạch chung cũng như các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo.
Không chỉ ồ ạt nâng cấp lên ĐH, việc đua nhau mở ngành cũng diễn ra hết sức nhộn nhịp. Trong 10 năm qua, đã có 347/355 lượt trường đăng ký được cho phép mở ngành. Năm 2009 cả nước có hơn 4.300 ngành học thì năm 2010 con số này đã nhảy lên hơn 4.500 ngành học.
Mặt khác, đối với những trường ĐH mới được thành lập hay nâng cấp từ CĐ lên, tốc độ mở ngành còn ồ ạt hơn. Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm TP.HCM (được nâng cấp từ trường CĐ) trong năm 2010 có bốn ngành đào tạo bậc ĐH với 800 chỉ tiêu.
Nhưng mùa tuyển sinh năm nay trường đã đào tạo 10 ngành bậc ĐH với 1.200 chỉ tiêu… Tương tự, năm 2010 Trường ĐH Thủ Dầu Một (nâng cấp từ Trường CĐ Sư phạm Bình Dương) xét tuyển 600 chỉ tiêu ĐH cho sáu ngành, đến năm nay đã nhảy vọt lên 12 ngành với 1.200 chỉ tiêu ĐH và 600 chỉ tiêu CĐ…
Điểm sàn chưa hợp lý Một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng trên trong kỳ tuyển sinh năm nay được nhiều người đưa ra đó là việc tính toán điểm sàn của Bộ GD-ĐT chưa hợp lý. Ông Cổ Tấn Anh Vũ – trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Giao thông vận tải TP.HCM – cho rằng việc dựa trên tổng chỉ tiêu và số thí sinh đạt điểm trên mức chỉ tiêu ấy để xác định điểm sàn là chưa hợp lý. Thực tế nhiều thí sinh chỉ chọn học một số ngành, nhóm ngành nhất định – nhất là kinh tế – nên nhiều ngành xã hội nhân văn, kỹ thuật bị thiếu nguồn tuyển. Từ đó dẫn đến tình trạng thừa vẫn thừa ở các ngành, trường kinh tế trong khi thiếu hoàn thiếu ở các trường, ngành kỹ thuật, nhân văn. Trong khi đó PGS-TS Nguyễn Thiện Tống – phó hiệu trưởng Trường ĐH Cửu Long – cho rằng do việc tuyển sinh cào bằng cho tất cả các trường trong khi mỗi nhóm trường có đặc thù và chức năng riêng, mặt bằng thí sinh các khu vực cũng khác nhau. |
Một thành viên đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng: “Các trường được phép mở ngành ồ ạt mà không có sự kiểm tra thực tế các điều kiện mở ngành có đáp ứng hay không. Đây là lý do quan trọng nhất của việc tồn tại các trường ĐH, CĐ hoạt động nhưng không có điều kiện đảm bảo chất lượng như quy định và cam kết của trường”. Một số ngành mới mở ở các trường không phù hợp với trình độ đào tạo ĐH như các ngành võ thuật, nấu ăn, thời trang…
Đáng nói là cơ cấu ngành nghề tập trung vào khối ngành kinh tế, trong khi nhiều ngành kỹ thuật công nghệ đứng trước nguy cơ đóng cửa. TS Nguyễn Kim Quang, trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Khoa học tự nhiên – ĐHQG TP.HCM, cho rằng trong khi thí sinh đua nhau vào nhóm ngành kinh tế, các trường vẫn hùa theo vì việc đầu tư mở khối ngành này chỉ là “tay không bắt giặc” dạy – học chay, không tốn kém như khối ngành kỹ thuật, khoa học cơ bản.
TS Vũ Thị Phương Anh – phó giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng và hỗ trợ chất lượng giáo dục thuộc Hiệp hội Các trường ĐH-CĐ ngoài công lập – cho rằng những quy định về mở trường, mở ngành hiện nay hết sức máy móc, chỉ dựa trên các thông số về cơ sở vật chất, giảng viên, chương trình đào tạo của các trường mà không dựa vào quy hoạch, không xét đến nhu cầu sử dụng nhân lực (phải có điều tra để xây dựng quy hoạch nguồn nhân lực).
Điều này dẫn đến các ngành mở ra rồi tự chết. Hiện nay đã có quy hoạch phát triển ĐH đến năm 2020 nhưng việc xét mở trường, mở ngành lại chưa căn cứ vào bản quy hoạch này. Điều dễ nhận thấy nhất là hầu như các trường, ngay cả các trường mới thành lập khi xin mở ngành mới đều tập trung vào nhóm ngành kinh tế, bởi đây là những ngành không đòi hỏi nhiều về đầu tư cơ sở vật chất, chi phí đào tạo thấp nên sinh lời lớn, lại dễ có người học. Thống kê sơ bộ cho thấy hầu hết các trường đều có nhóm ngành này, có xin thì có cho.
Bên cạnh đó, cách quản lý hiện nay hầu như khoán trắng cho các trường. Cũng như công tác tuyển sinh hiện nay, bộ nắm đầu vào, thả đầu ra, trong khi đáng ra phải làm điều ngược lại, công tác quản lý ĐH cũng vậy. Bộ chỉ xét mở ngành (đầu vào) và trong quá trình đào tạo không có cơ chế gì để kiểm định, điều chỉnh cho phù hợp.
Đẩy mạnh phân tầng đại học
Trước tình trạng giáo dục đại học chạy theo số lượng như hiện nay, nhiều chuyên gia đề nghị cần đẩy mạnh phân tầng đại học để có chính sách đầu tư và tuyển sinh khác nhau, tạo ra hệ thống trường đại học đa dạng.
Qua thực tế giám sát chất lượng đào tạo của các trường ĐH-CĐ, GS-TS Nguyễn Minh Thuyết – nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội – kết luận điều kiện đảm bảo chất lượng của các trường rất yếu. Thậm chí có trường trung cấp vừa được nâng cấp lên CĐ mới hai năm đã được nâng tiếp lên ĐH. Như thế làm sao đảm bảo các điều kiện về đội ngũ, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo. GS Thuyết cho rằng không nên thực hiện việc nâng cấp ồ ạt các trường trung cấp lên CĐ, CĐ lên ĐH như hiện nay. Bởi các trường trung cấp, CĐ mạnh về đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, khi nâng lên bậc cao hơn sẽ không phát huy được thế mạnh của mình trong khi lại yếu ở việc đào tạo lý thuyết của bậc ĐH. Làm như thế chúng ta sẽ mất trường trung cấp tốt trong khi lại có trường CĐ non và mất trường CĐ tốt để có trường ĐH non.
Để giải quyết vấn đề này, theo GS Thuyết, Bộ GD-ĐT phải tham mưu cho Chính phủ để đánh giá chính xác mối quan hệ giữa quy mô và chất lượng. Xã hội đang nghi ngờ về chất lượng đào tạo và có những đòi hỏi cao hơn về vấn đề này. Tuy nhiên, khuynh hướng phấn đấu của Bộ GD-ĐT vẫn là số lượng. Hiện cả nước có 450 trường ĐH-CĐ và sẽ tăng lên 573 trường vào năm 2020 để đạt tỉ lệ 400 sinh viên/vạn dân. Phải đánh giá đúng để có thể điều chỉnh chiến lược, đáp ứng cả bài toán về số lượng và chất lượng.
Cũng nhấn mạnh đến yếu tố chất lượng đào tạo, TS Vũ Thị Phương Anh – phó giám đốc Trung tâm bồi dưỡng và hỗ trợ chất lượng giáo dục thuộc Hiệp hội Các trường ĐH-CĐ ngoài công lập – cho rằng cách quản lý chất lượng ĐH hiện nay Bộ GD-ĐT hầu như khoán trắng cho các trường. Cũng như công tác tuyển sinh hiện nay, bộ nắm đầu vào thả đầu ra trong khi đúng ra phải làm ngược lại. Công tác quản lý ĐH cũng vậy. Bộ chỉ xét mở ngành (đầu vào) và trong quá trình đào tạo không có cơ chế gì để kiểm định, điều chỉnh cho phù hợp. Nếu có hệ thống kiểm định ngành nghề với sự tham gia của các hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp thì bộ và các trường sẽ kịp thời điều chỉnh chương trình đào tạo để nâng cao chất lượng, thu hút người học.
Chiều 12-10, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM đã tổ chức hội thảo góp ý cho Luật giáo dục ĐH sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2. Lãnh đạo các trường ĐH trên địa bàn đã đóng góp nhiều ý kiến đối với dự thảo luật, trong đó tập trung vào các vấn đề tự chủ trong trường ĐH. Hầu hết các đại biểu tham gia nhấn mạnh cần phải giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường, để từ đó đổi mới và nâng cao chất lượng. Các ý kiến cho rằng không chỉ giao quyền tự chủ tuyển sinh mà cần cả tự chủ về tài chính, bằng cấp. |
Trong khi đó, GS-TS Đặng Lương Mô – cố vấn ĐHQG TP.HCM – đề xuất VN không nên vội đưa ra những mục tiêu xa vời, xây dựng các trường ĐH đẳng cấp châu lục hay quốc tế mà nên nhắm đến các mục tiêu gần, thiết thực, cụ thể và có thể đạt được trong tầm tay. Cần quy định rõ ràng các tiêu chuẩn tối thiểu đối với một ĐH để đảm bảo chất lượng ĐH về cơ sở vật chất (bao gồm cả phòng ốc thí nghiệm, phòng nghiên cứu…) và đội ngũ giảng viên có đủ số lượng và năng lực.
Để giải quyết những bất cập trong phát triển giáo dục ĐH hiện nay, nhiều chuyên gia cho rằng phải xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng, từ đó đẩy mạnh phân tầng ĐH.
TS Vũ Thị Phương Anh đề xuất: căn cứ trên đặc thù và chức năng riêng của các trường, cần có các nhóm trường khác nhau để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người học và địa phương. Chẳng hạn ở Mỹ, hệ thống ĐH cộng đồng làm rất tốt chức năng mở rộng cơ hội tiếp cận ĐH cho đại bộ phận người dân, trong khi những trường ĐH đỉnh cao có nhiệm vụ khác, đối tượng tuyển sinh khác. Ở VN, khi đánh đồng các trường, nhiều trường không tuyển sinh được sẽ phải dùng mọi cách để lách, thu hút thí sinh. Bên cạnh đó, bộ nên đẩy mạnh công tác kiểm định đầu ra để từ đó thị trường quyết định ai tốt thì tồn tại, ai không tốt sẽ bị đào thải.
Cùng quan điểm, PGS-TS Vũ Đình Thành – hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM) – cho rằng cấu trúc hệ thống giáo dục ĐH VN chưa phân tầng, các trường đều được đánh đồng như nhau trong khi mục tiêu, nhiệm vụ mỗi trường mỗi khác. Điều này dẫn đến việc đầu tư, chính sách tuyển sinh giống nhau, gây khó khăn cho các trường. Cần phải có các tiêu chuẩn về chất lượng để phân tầng ĐH thành trường ĐH mục tiêu nghiên cứu (số lượng sinh viên ít, đầu tư lớn, chất lượng sinh viên cao), các trường đáp ứng nhu cầu nhân lực sẽ là nơi học tập của đại đa số sinh viên.
Tương tự, GS-TS Võ Tòng Xuân – hiệu trưởng Trường ĐH Tân Tạo – cho rằng xu hướng ĐH hóa các trường CĐ là một chính sách sai lầm trong phát triển ĐH ở VN. Chúng ta đang phát triển theo thị hiếu người học (sính bằng ĐH) mà chưa căn cứ vào nhu cầu nhân lực thực tế. Không nhất thiết tỉnh nào cũng có trường ĐH. Để phát triển, các địa phương cần đội ngũ nhân lực lành nghề, có kỹ năng chứ không phải tất cả đều là kỹ sư, cử nhân. Do đó mỗi tỉnh cần có một trường CĐ cộng đồng (gom các trường nghề, trung cấp, CĐ ở địa phương lại) để đào tạo những ngành nghề mà địa phương đang cần. Những sinh viên học xong nếu đủ điều kiện có thể liên thông lên ĐH.
Trong khi đó, TS Phạm Thị Ly – Trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ĐHQG TP.HCM – phác họa một hệ thống ba tầng bậc: trên đỉnh hình tháp là các ĐH định hướng nghiên cứu, chiếm khoảng 10% tổng số sinh viên, tiếp theo là các ĐH định hướng giảng dạy, chiếm khoảng 40% tổng số sinh viên, và tầng dưới cùng là các trường CĐ cộng đồng, trường nghề, chiếm khoảng 50% số sinh viên (bao gồm cả các trường hiện nay do Bộ LĐ-TB&XH quản lý).
Đại học Quốc gia TP.HCM phải trở thành đầu tàu
Sáng 12-10, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã đến thăm và làm việc với ĐHQG TP.HCM. Tại đây, Phó chủ tịch nước nhấn mạnh: “Đến năm 2020 ĐHQG TP.HCM phải trở thành đầu tàu của các ĐH cả nước. Đây là mô hình cần được phát huy và nhân rộng. Nếu được giao quyền tự chủ nhiều hơn, ĐHQG sẽ phát huy được sức mạnh và trí tuệ của toàn đội ngũ, góp phần phát triển hệ thống giáo dục ĐH. Đề nghị ĐHQG TP.HCM phát triển theo hướng ĐH nghiên cứu triển khai ứng dụng, sớm đứng vào hàng ngũ các trường ĐH tiên tiến trên thế giới”. Chiều cùng ngày, tại cuộc làm việc với Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, phó chủ tịch nước khẳng định nhiều trường ĐH tư thục đang đào tạo theo kiểu “ăn xổi ở thì”, chạy đua tuyển sinh, không quan tâm tới chất lượng đào tạo, chất lượng đầu ra của sinh viên. Trong thời gian tới Chính phủ, Bộ GD-ĐT sẽ siết lại chất lượng đào tạo tại các trường ĐH tư thục. |