Biến đổi khí hậu là hiểm họa nhãn tiền
Biến đổi khí hậu là chuyện nhãn tiền ở ngay trên đất nước ta, trong cuộc sống của tất cả nhân dân ta, chứ không phải chỉ là những nội dung sáo mòn được lặp đi lặp lại nhiều lần trên sách báo hay trên diễn đàn các cuộc hội thảo khoa học.
Một thế giới đang thay đổi
Cây bẩy lá một hoa dần tuyệt chủng |
BĐKH đang là hiểm họa nhãn tiền với mọi dân tộc trên thế giới và liên quan trực tiếp đến đời sống của mỗi chúng ta, cho các thế hệ con cháu chúng ta trên mảnh đất này.
Nhìn vào biểu đồ dưới đây ta thấy trong suốt 1800 năm nồng độ các khí nhà kính (CO2, CH4, N2O) hầu như không thay đổi. Nhưng do công nghiệp hóa mà các khí nhà kính đã tăng vọt trong 200 năm qua, CO2 đã tăng thêm tới trên 30% và đạt tới 372ppm (theo Nguyễn Hữu Ninh, 2008)
Nhiệt độ trung bình toàn cầu (a) đã tăng trung bình 0,740C so với năm 1850. Nhiệt độ ở hai cực tăng gấp đôi so với trung bình toàn cầu. Từ đó dẫn đến việc băng tan nhanh hơn làm cho diện tích Bắc cực thu hẹp lại (c) và làm cho mực nước biển dâng cao lên rõ rệt (b). Trong thập kỷ vừa qua mức nước biển ở Châu Á đã tăng thêm 3,1mm/năm (theo www.greenfacts.org):
Trong thế kỷ 21 bão nhiệt đới sẽ tăng lên cả về số lượng và cường độ (10-20%), hiện tượng El Nino và La Nina tăng hơn cả về tần suất lẫn cường độ. Mưa nhiều hơn, bão lụt nhiều hơn, điều mà chúng ta đã tự nhận thấy trong suốt những năm gần đây. Trong khi đó mùa hè thường nóng gắt tại nhiều nơi trên Trái đất dẫn đến nạn hạn hán nghiêm trọng tại nhiều quốc gia, trong đó có cả nước ta. Tầng ozôn- nơi hấp thụ tới 90% tia tử ngoại của bức xạ Mặt trời- bị bào mòn và phá thủng tại một số nơi (ở Nam cực và Bắc cực) làm cho các nước phát triển phải ký kết các hiệp ước cắt giảm phát thải khí nhà kính, nhất là phải thay thế CFC bằng các khí khác trong các thiết bị làm lạnh.
Người ta tiên lượng là năng suất cây trồng ở châu Á sẽ bị giảm 2,5-10% vào những năm 2020 và giảm 5-30% vào những năm 2050. Khoảng 450 triệu người dân ở các nước đang phát triển tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ ở tình trượng thiếu dinh dưỡng (FAO, 2005). Sẽ có khoảng từ 120 triệu đến 1,2 tỷ người thiếu nước dùng vào những năm 2020 (Nguyễn Hữu Ninh, 2008). Do tốc độ thoát hơi nước tăng nên chỉ số tăng trưởng sinh khối của cây rừng giảm đi. Nhiều cây gỗ quý do bị khai thác quá mức sẽ dẫn đến cạn kiệt (gụ, lim, lát, nghiến, pơmu, trắc…). Rất nhiều cây dược liệu quan trọng sẽ bị dân chúng nước ta và người nước ngoài đến khai thác đến tuyệt chủng (điển hình như cây Bảy lá một hoa -Paris polyphylla- có tác dụng chống ung thư và nhiều cây khác)
Hổ bị săn bắn để nấu cao |
Việc đánh bắt hải sản quá mức dẫn đến suy giảm nghiêm trọng sản lượng đánh bắt. Hiện tượng El Nino làm giảm sút nhanh chóng số lượng ấu trùng cá. Chuỗi thức ăn trong nước biển bị rối loạn do BĐKH. Nhiệt độ bề mặt nước tăng lên làm hàm lượng ôxy trong nước hạ thấp xuống và làm quá mức chịu đựng của một số loài hải sản. Nước bẩn thài từ đất liền đã làm gây nhiễm bệnh virút cho hàng loạt hải trường nuôi tôm ở nước ta.
Cảnh báo cho Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có đa dạng sinh học đứng thứ 16 trên thế giới, với trên 75 loài duy nhất chỉ Việt Nam mới có, nhưng thật đáng tiếc- theo nguồn tin từ một bản phúc trình của Cục Bảo vệ Môi trường thuộc Bộ Tài Nguyên và Môi trường Việt Nam phối hợp với Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới cho hay, chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1996 đến năm 2006, những loài động, thực vật bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam đã tăng đến mức báo động, từ 709 lên 857 loài. Một trong những nguyên nhân khiến nhiều loại động, thực vật bị đe dọa tuyệt chủng là do ô nhiễm môi trường, phá rừng, cháy rừng với mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng. Những loài như tê giác 2 sừng, heo vòi, cầy rái cá… đã bị tuyệt chủng hoàn toàn. Những loài hươu sao, cá chép gốc, cá sấu hoa cà… cũng tuyệt chủng hoàn toàn trong tự nhiên, chỉ tồn tại ở trạng thái nuôi dưỡng một vài cá thể. Mặc dù đa số biết đến khái niệm tuyệt chủng, song họ đều nghĩ rằng những loài động thực vật quý hiếm đang suy giảm là do bị săn bắn, bị mất nơi cư trú… chứ chẳng liên quan gì đến việc họ “ăn đặc sản” hay dùng chúng làm thuốc bổ, đồ trang sức…
Trước mối đe dọa mất mùa, thiên tai, suy giảm đa dạng sinh học chúng ta cần có những giải pháp vĩ mô và vi mô. Giải pháp vĩ mô là thực hiện các cam kết quốc tế về Bảo vệ môi trường mà nước ta đã tham gia ký kết. Giải pháp vi mô gồm rất nhiều giải pháp cụ thể thích hợp cho từng lĩnh vực. Về nông lâm nghiệp đó là duy trì và bảo tồn các giống bản địa (ví dụ như giống ngô thích nghi với tình trạng ít nước, ít phân đang gieo trồng trên cao nguyên đá Đồng Văn), các giống động thực vật quý hiếm; bảo vệ nghiêm ngặt rừng và các Vườn Quốc gia, các Khu dự trữ sinh quyển, nghiêm cấm nuôi, săn bắt và tiêu thụ các động vật quý hiếm; thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch trồng mới 5 triệu ha rừng; lựa chọn hoặc nhập khẩu có chọn lọc các giống cây trồng vừa có năng suất cao, có phẩm chất tốt lại kháng sâu bệnh, kháng hạn, kháng úng…; nghiêm cấm sử dụng các thuốc trừ sâu nguy hiểm cho người, gia súc, gia cầm, thay thế bằng các trừ sâu sinh học; lựa chọn để ứng dụng một cách an toàn các sinh vật chuyển gen (GMO); tăng dự trữ thức ăn và chuẩn bị điều kiện chống rét, chống nóng cho gia súc, gia cầm; nhập có chọn lọc các giống gia súc ,gia cầm có hiệu quả kinh tế cao và thích hợp với từng tiểu vùng khí hậu (ví dụ như nhập giống cá hồi cho Lâm Đồng, Lào Cai, Điện Biên…); chấm dứt việc nhập khẩu các nguyên liệu có thể sản xuất trong nước (ngô, bông, thuốc lá, đường, khô dầu đậu tương, hạt điều…). Về ngư nghiệp cần thực hiện các biện pháp nuôi thả bền vững đối với các thủy vực nuôi cá, nuôi tôm, tránh nhiễm thuốc trừ sâu, thuốc kháng sinh và các nguồn nước bẩn; sử dụng các chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu để tự làm trong sạch nước; sử dụng biện pháp nuôi hỗn hợp tại các tầng nước để tránh tồn đọng thức ăn dư thừa; tổ chức lại chương trình đánh bắt xa bờ để tránh khai thác cạn kiệt ven bờ; có kế hoạch mở rộng canh tác biển (trồng hải tảo trên các “luống” căng bằng dây thép)… Về xây dựng cơ bản cần thiết kế các nhà chống chịu được gió bão và lũ lụt (hiện đã có mô hình căn nhà hai tầng chịu được gió cấp 12 với giá khoảng 25 triệu đồng); cấm xây nhà tại các nơi có nguy cơ sụt lở đất (ven núi, ven sông, ven biển), trồng cỏ Vertiver hoặc xây kè chống sụt lở (như ven các đường cao tốc ở Trung Quốc); xây dựng và kiên cố hóa các loại kênh mương tưới tiêu để chống úng chống hạn; tổ chức các khu tái định cư sao cho đúng với quy định để cho bà con có điều kiện sản xuất và sinh sống tốt hơn nơi ở cũ; hạn chế việc bê tông hóa để xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp trên các vùng đất trồng trọt mà cấu tượng đất phải qua hàng nghìn năm mới có được…
Lỗ thủng tầng ôzôn |
Về công nghệ cần xây dựng tập trung cho ngành Công nghệ sinh học để nâng cao sản lượng và chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; không xuất khẩu quá nhiều gạo nếu có thể thay thế bằng nông sản khác có giá trị cao hơn; chế biến ngô khoai sắn thành các sản phẩm lên men có giá trị kinh tế rất cao (dược phẩm, chất điều vị, enzim, axit hữu cơ, dung môi…); sử dụng kỹ thuật giải trình tự ADN để phát hiện nhanh hơn các loài vi sinh vật và động, thực vật mới đối với thế giới; chế biến cà phê, điều để tránh xuất thô; chế biến và bảo quản tốt các loại hoa và quả có khả năng xuất khẩu; phát triển cồn sinh học và diezen sinh học để thay thế dần các nhiên liệu hóa thạch; kiên quyết xử lý rác theo biện pháp tái chế để thay thế hoàn toàn cho phương pháp chôn lấp (như mô hình tái chế 90% rác tại Huế)…
Chúng ta đang đối mặt với BĐKH và phải khẩn trương tiến hành một cách bền vững và khoa học đối với hàng loạt các biện pháp trước mắt và lâu dài. Đây là chuyện nhãn tiền ở ngay trên đất nước ta, trong cuộc sống của tất cả nhân dân ta, chứ không phải chỉ là những nội dung sáo mòn được lặp đi lặp lại nhiều lần trên sách báo hay trên diễn đàn các cuộc hội thảo khoa học.