Không thể mãi mãi “đường ta ta đi”

LTS: Theo nhiều nhà khoa học, trước hiện tượng số lượng GS/PGS được phong trong năm 2017 tăng đột biến so với các năm trước, việc Thủ tướng chính phủ yêu cầu Bộ GD&ĐT rà soát lại là cần thiết. Nhưng điều cấp thiết hơn là phải xác định lại nội hàm, tiêu chuẩn, quy trình xét phong tặng, chỉ có như vậy mới bảo đảm được chất lượng đội ngũ GS/PGS.


Vấn đề căn bản nhất là cần xác định lại nội hàm của GS/PGS, ít nhất là cho 15 năm tới. Có 2 phương án: 1) Quan điểm “đường ta, ta đi”, bất chấp xu thế hội nhập, không thay đổi quan điểm hiện thời, GS/PGS vừa trách nhiệm thì ít mà vinh danh thì nhiều, sau khi được phong ai vận dụng được gì thì vận dụng; 2) Hội nhập quốc tế, coi GS/PGS là một vị trí công tác, quyền lợi đi lẫn với nghĩa vụ và chỉ tồn tại ở các trường đại học và viện nghiên cứu. Sau khi chốt được phương án thì mới bàn tiếp được quy trình phong/bổ nhiệm…

a)  Phương án 1 “Đường ta ta đi”

Với phương án này, thì mọi thay đổi chỉ là vá víu. Tuy nhiên tôi vẫn xin đề nghị mấy điểm sau về quy trình:

Thứ nhất: Thực tế thời gian vừa qua cho thấy sự trì trệ và bảo thủ trong tư duy của một số cá nhân tại Cục Nhà giáo trong việc xây dựng Dự thảo. Điển hình, sau khi Viện Toán học có công văn góp ý với Dự thảo, một số đại diện của Viện Toán đã được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam làm việc trọn một buổi sáng. Phó Thủ tướng cơ bản nhất trí với các nội dung do Viện Toán học đề xuất và chỉ đạo thư ký làm việc lại với Bộ GD&ĐT. Tuy nhiên những nội dung đó không thấy đưa vào nội dung dự thảo.

Các cán bộ soạn dự thảo Quy định về tiêu chuẩn GS/PGS đưa ra những tiêu chí cứng như: viết sách, hướng dẫn NCS, tham gia xây dựng chương trình đào tạo, chủ trì đề tài. Họ không sao hiểu được một điều đơn giản là trên thế giới này (ngoại trừ Việt Nam) tất cả những “tiêu chí” nhắc tới ở trên luôn là sở thích/mong muốn/nguyện vọng của một GS/PGS nhưng không là trách nhiệm, càng không thể là “điểm sàn” để xét phong/bổ nhiệm GS/PGS. Đối với chức danh này chỉ có hai tiêu chí: nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm giảng dạy.

Thứ hai: Bỏ hội đồng cấp cơ sở và cấp nhà nước, giữ lại hội đồng ngành, song song với việc nâng cao chất lượng hội đồng ngành, tiến hành bầu hội đồng này một cách công khai dựa trên tiêu chí duy nhất: uy tín khoa học tính bằng thành tích nghiên cứu mà cụ thể là công bố quốc tế uy tín (tôi nhấn mạnh chữ uy tín).

Thứ ba: chỉ giữ lại hai tiêu chí cứng duy nhất khi xét công nhận GS/PGS: thành tích nghiên cứu khoa học (thông qua công bố quốc tế uy tín) và kinh nghiệm giảng dạy (tính theo thâm niên). Cho phép chuyển đổi điểm công bố để bù thiếu hụt về giờ dạy.
Thứ tư: để đảm bảo tính chất vinh danh, không thể công nhận GS/PGS tràn lan. Vì vậy cần xem xét cấp quota cho mỗi ngành khoa học dựa theo thành tích công bố của ngành đó. Có như vậy mới không gây bức xúc trong dư luận: có những ngành đầy GS/PGS nhưng chẳng có công bố nào.

b) Phương án 2 “Hội nhập”

Khi đã quyết định hội nhập thực sự thì có tương đối nhiều mô hình để ta có thể lựa chọn. Tuy nhiên cần hiểu nguyên lý căn bản của việc hội nhập là coi GS/PGS như một bộ phận cơ hữu của một trường đại học: GS/PGS phải là bộ não trong cơ thể của một trường. Cũng như không tồn tại một người không não, không thể có một trường đại học, một khoa không có GS/PGS. Ngược lại, chức danh GS/PGS phải gắn liền với một vị trí giảng dạy hay nghiên cứu.

Thứ nhất: bỏ chuyện công nhận GS/PGS tại một hội đồng nhà nước, đưa việc bổ nhiệm GS/PGS về cho từng trường đại học.

Thứ hai: đặt quota GS/PGS cho từng trường đại học, viện nghiên cứu (dựa trên số sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh theo học). Trên thế giới người ta gọi đó là các “vị trí GS” hay các “chân GS”.

Thứ ba: nếu muốn đảm bảo chất lượng sàn của đội ngũ GS/PGS có thể thành lập các hội đồng ngành để kiểm định trình độ nghiên cứu của các ứng viên dựa trên tiêu chí duy nhất: công bố quốc tế uy tín.

GS. TS Phùng Hồ Hải (Viện trưởng Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam

Chỉ là ngụy biện

Trong các lĩnh vực khoa học chính trị và xã hội thì nghĩa vụ của các nhà khoa học là phải phân tích được các chủ trương và chính sách của Việt Nam (VN) có gì đúng và có gì cần khắc phục. Bản chất khoa học là tìm cách lý giải và nhận thức thế giới nên chắc chắn các nghiên cứu của VN sẽ công bố quốc tế được nếu đó là các nghiên cứu một cách bài bản và có ý nghĩa khoa học. Nếu chúng ta không thuyết phục được đa số những người khác là mình đúng thì cần phải xem lại lý luận của mình có gì không ổn. Ví dụ như toàn thế giới vẫn coi trọng lý thuyết tư bản của Karl Marx. Hay như các nhà kinh tế thế giới hiện nay đều coi các nhà lý luận Trung Quốc đứng đầu trong những nghiên cứu về phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Nhiều nhà kinh tế thế giới còn coi đấy là khuôn mẫu cho sự phát triển kinh tế trong tương lai của thế giới vì nó chú trọng đến các mục tiêu dài hạn đảm bảo tính phát triển bền vững của xã hội. Trừ những nghiên cứu liên quan đến an ninh đất nước thì bất kỳ những nghiên cứu gì mang tính đặc thù của VN đều có thể công bố được vì khoa học xã hội và nhân văn rất coi trọng tính đa dạng của hệ thống chính trị và kinh tế. Các chủ đề như vậy có khi còn dễ thực hiện hơn các nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên vì các nghiên cứu cơ bản đòi hỏi phải có kết quả mới hoàn toàn. Không thể nói rằng vì đặc thù VN mà các ngành khoa học xã hội nhân văn không thể có công bố quốc tế được. Đó chỉ là ngụy biện. Nếu chưa đủ trình độ công bố thì các yêu cầu về công bố quốc tế phải được nâng dần lên theo thời gian.  GS. TS Ngô Việt Trung (Nguyên Viện trưởng Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam)

Cần phân biệt GS/PGS trong trường công lập và tư thục

Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, việc phong PGS,GS cần tách biệt giữa trường công lập và trường tư thục. Với trường đại học tư thục, thì nên để họ tự chủ hoàn toàn việc bổ nhiệm (chứ không phải là phong) PGS, GS nếu họ bổ nhiệm tràn lan, và bổ nhiệm những người kém cỏi thì họ sẽ tự bị đào thải bởi thị trường. Với các trường đại học công lập, bộ GD &ĐT nên để các trường tự xét duyệt, tuyển dụng, bổ nhiệm PGS, GS nhưng có thể ra một quy định về sàn (ví dụ tối thiểu bao nhiêu công trình, hoặc như quy định hiện nay; vì thực tế như năm nay cho thấy các hội đồng ngành đã không làm tốt nhiệm vụ sàng lọc của mình, và không chỉ lần đầu), và hơn nữa cần ra quota khống chế số lượng GS, PGS, ví dụ số GS chỉ chiếm không quá 10% giảng viên, số PGS chiếm không quá 30% số giảng viên với quy định về trách nhiệm và quyền hạn cụ thể (và có kiểm tra sau khi bổ nhiệm tránh tình trạng PGS, GS suốt đời, sau khi được bổ nhiệm chính thức rồi thì lười biếng). Việc giới hạn quota để tránh vỡ quỹ lương (như một số viện của ĐH Bách khoa Hà Nội hiện nay sắp hết giảng viên để phong PGS vì sắp PGS hết cả rồi), vừa để tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng bên trong và ngoài đơn vị (lựa chọn ứng viên cạnh tranh để phong PGS, GS do số quota là cố định) và tạo ra sự lưu chuyển trí thức giữa các đại học công lập (tư thục) (ứng viên A nếu không lên được PGS, GS ở trường này có thể ứng cử PGS, GS ở trường công lập khác hoặc trường tư thục). Bộ GD&ĐT sẽ chỉ đóng vai trò thanh kiểm tra quá trình bổ nhiệm PGS, GS của các trường. Ngoài ra, việc cải tổ thang bậc thăng tiến ở đại học cũng là điều cấp thiết để cải thiện chất lượng đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu tại các đại học VN; điều mà ngay cả một quốc gia có cùng thể chế và đặc điểm xã hội với chúng ta là Trung Quốc đã làm từ lâu rồi (bắt đầu từ thời Hồ Diệu Bang, sau đó là Chu Dung Cơ). Thang bậc thăng tiến trong giảng dạy và nghiên cứu tại đại học của Việt Nam nên được rút ngắn lại chứ không thể tuần tự 12 bậc lương công chức như hiện nay (dù gần đây có ghi nhận là nhà nước đã thay đổi để PGS, GS có thể “nhảy cóc” lên 6.0). Trong thang bậc thăng tiến chỉ nên có trợ giảng, giảng viên/giảng viên chính (assistant professor) – mà điều kiện tiên quyết từ bậc này phải là có bằng TS, phó giáo sư, giáo sư.  PGS. TS Nguyễn Xuân Hoài (Viện trưởng Viện NC&PT Công nghệ thông tin, ĐH Hà Nội)

Tác giả