“Muốn không được” và “được không muốn”
Trong khi phần lớn doanh nghiệp tư nhân muốn mà không đủ khả năng nghiên cứu đổi mới công nghệ thì các doanh nghiệp lớn của Nhà nước lại đầu tư rất ít vào lĩnh vực này. Đồng thời, thủ tục tài chính rườm rà đã gây trở ngại cho chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu ứng dụng...
Theo TS Lê Xuân Bá, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương thì tỷ lệ đầu tư cho KH&CN của khu vực doanh nghiệp (DN) Việt Nam hiện chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng chi cho KH&CN cả nước, trong khi ở Nhật và ở Đức từ cách đây gần 20 năm đã là khoảng 80 và gần 70%. Sở dĩ có nhu cầu cao song lại không đầu tư nhiều cho KH&CN vì doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm một nguồn lực lớn trong nền kinh tế, đặc biệt về vốn. Một thống kê gần đây cho thấy, cả nước có khoảng 4.000 DNNN, chỉ chiếm 3% số DN cả nước nhưng lại chiếm tới 50% tổng vốn đầu tư nhà nước và 60% lượng tín dụng nhà nước, song mức độ đầu tư cho KH&CN của DNNN còn quá ít, ước tính các tổng công ty chỉ chi 0,25% doanh thu cho nghiên cứu, quá thấp so với tỷ lệ 5- 10% của doanh nghiệp tại các nước phát triển. TS Bá nhận xét: “Nhiều tổng công ty có viện nghiên cứu riêng, song phần lớn chỉ là sự lắp ghép cơ học theo chủ trương của “trên”. Sự tồn tại của viện không bắt nguồn từ nhu cầu đổi mới công nghệ của công ty, trái lại, thường bị xem là gánh nặng”.
Ngay cả khi DNNN đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ thì động lực của những khoản đầu tư như vậy cũng còn là một câu hỏi. DNNN mua thiết bị mới đắt hơn DN tư nhân, sử dụng không hiệu quả trở thành “chuyện thường”.
Mặc dù việc phê duyệt hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cho doanh nghiệp của Bộ KH&CN không phân biệt loại hình kinh tế. Nếu như năm 2004, số đề tài của DN tư nhân được hỗ trợ kinh phí nghiên cứu chỉ bằng nửa số đề tài của DNNN; thì đến năm 2006, tỷ lệ trên là gấp rưỡi. Nhưng do hầu hết các doanh nghiệp tư nhân đều ở quy mô vừa và nhỏ, không có viện nghiên cứu riêng, trình độ công nghệ lạc hậu, vì vậy, dù có động cơ đổi mới công nghệ mạnh hơn các DNNN, song hầu hết đều không đủ khả năng.
“Chính sách ưu đãi về thuế không có tác dụng đối với những doanh nghiệp không đủ vốn để đổi mới công nghệ” – TS Bá đánh giá.
Cần thoáng hơn
Là tác giả “máy chữa cháy thế hệ mới” từng được nhiều báo nhắc đến, ông Phan Đình Phương, công ty An Sinh, ghi nhận: “Không thể nào hoàn thành nghiên cứu nếu không có sự hỗ trợ kinh phí nghiên cứu của Nhà nước”, nhưng cho rằng thủ tục cấp kinh phí cho nghiên cứu không thể nào theo cách thông thường: “Không phải ai khác, mà chính DN phải chịu toàn bộ trách nhiệm khi nghiên cứu ứng dụng thất bại. Vì thế chỉ cần kiểm tra “khâu cuối”: sản phẩm nghiên cứu có gì ưu việt hơn sản phẩm trước đó? Chỉ tiêu nào xác định thành công? Có đáp ứng nhu cầu xã hội không… Cần gì phải kiểm tra vé taxi, hóa đơn khách sạn, chi phí giao dịch?”. Ngoài ra, cơ chế xét duyệt hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cũng cần thoáng hơn: “Không nên giới hạn mỗi DN mỗi lần chỉ một đề tài. Tác giả càng nhiều ý tưởng trên nhiều lĩnh vực càng dễ phối hợp”.
Cũng nhờ hỗ trợ kinh phí nghiên cứu mà chế phẩm SH’99 (phòng trừ virus gây đốm trắng cho tôm sú) do Công ty TNHH Ứng dụng Công nghệ sinh học được tiêu thụ mạnh ở Sóc Trăng. Bà Trịnh Hoàng Mai, Giám đốc công ty cho biết: Theo quy định, DN phải có kinh phí đối ứng là 70%. Do vốn công ty nhỏ (chủ yếu do thành viên là các nhà khoa học đóng góp) nên công ty phải huy động vốn từ các trang trại nuôi tôm. Tuy nhiên chủ các trang trại nuôi tôm lại không có thói quen lấy chứng từ, nên qua kiểm tra tài chính, vốn đối ứng của công ty mới chỉ đạt trên 20%. Vì vậy mà bà Mai đề nghị xem xét lại tỷ lệ hỗ trợ kinh phí, “có thể lên tới mức 60%”.
Chị Trần Thị Xuân, chuyên viên theo dõi, đánh giá việc hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cho DN của Bộ KH&CN cũng cho biết: Kinh phí hỗ trợ nghiên cứu cho DN được cấp thông qua Kho bạc, nơi DN đóng trụ sở chính, song do khâu xét cấp kinh phí phải qua nhiều cửa khiến tiến độ nghiên cứu bị chậm rất nhiều. Ngoài ra, quy định DN phải có vốn đối ứng 70% là nguyên nhân khiến nhiều DN muốn mà không thể nhận hỗ trợ nghiên cứu.
Và một loạt đề xuất thay đổi cơ chế tài chính để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng được TS Lê Xuân Bá nêu ra: Cho phép DN được hạch toán các khoản chi cho nghiên cứu công nghệ, đầu tư để ứng dụng công nghệ cao vào giá thành sản phẩm. Để thực hiện giải pháp này, cần quy định rõ tỷ lệ phần trăm tối đa doanh thu mà DN được phép hạch toán để chi cho hoạt động KH&CN của mình (như ký hợp đồng hợp tác nghiên cứu, bồi dưỡng nguồn lực, ứng dụng KH&CN…); cho phép DN được miễn thuế thu nhập DN đối với phần lợi nhuận thu được từ ứng dụng các kết quả nghiên cứu; miễn thuế VAT, thuế thu nhập cho các viện R&D đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ do đơn vị tạo ra; sửa cơ chế tài trợ, đầu tư Nhà nước cho KH&CN theo hướng gián tiếp (tạo điều kiện hạ tầng, quỹ đầu tư mạo hiểm…), hạn chế đầu tư trực tiếp kiểu xin – cho.
Ngay cả khi DNNN đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ thì động lực của những khoản đầu tư như vậy cũng còn là một câu hỏi. DNNN mua thiết bị mới đắt hơn DN tư nhân, sử dụng không hiệu quả trở thành “chuyện thường”.
Mặc dù việc phê duyệt hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cho doanh nghiệp của Bộ KH&CN không phân biệt loại hình kinh tế. Nếu như năm 2004, số đề tài của DN tư nhân được hỗ trợ kinh phí nghiên cứu chỉ bằng nửa số đề tài của DNNN; thì đến năm 2006, tỷ lệ trên là gấp rưỡi. Nhưng do hầu hết các doanh nghiệp tư nhân đều ở quy mô vừa và nhỏ, không có viện nghiên cứu riêng, trình độ công nghệ lạc hậu, vì vậy, dù có động cơ đổi mới công nghệ mạnh hơn các DNNN, song hầu hết đều không đủ khả năng.
“Chính sách ưu đãi về thuế không có tác dụng đối với những doanh nghiệp không đủ vốn để đổi mới công nghệ” – TS Bá đánh giá.
Cần thoáng hơn
Là tác giả “máy chữa cháy thế hệ mới” từng được nhiều báo nhắc đến, ông Phan Đình Phương, công ty An Sinh, ghi nhận: “Không thể nào hoàn thành nghiên cứu nếu không có sự hỗ trợ kinh phí nghiên cứu của Nhà nước”, nhưng cho rằng thủ tục cấp kinh phí cho nghiên cứu không thể nào theo cách thông thường: “Không phải ai khác, mà chính DN phải chịu toàn bộ trách nhiệm khi nghiên cứu ứng dụng thất bại. Vì thế chỉ cần kiểm tra “khâu cuối”: sản phẩm nghiên cứu có gì ưu việt hơn sản phẩm trước đó? Chỉ tiêu nào xác định thành công? Có đáp ứng nhu cầu xã hội không… Cần gì phải kiểm tra vé taxi, hóa đơn khách sạn, chi phí giao dịch?”. Ngoài ra, cơ chế xét duyệt hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cũng cần thoáng hơn: “Không nên giới hạn mỗi DN mỗi lần chỉ một đề tài. Tác giả càng nhiều ý tưởng trên nhiều lĩnh vực càng dễ phối hợp”.
Cũng nhờ hỗ trợ kinh phí nghiên cứu mà chế phẩm SH’99 (phòng trừ virus gây đốm trắng cho tôm sú) do Công ty TNHH Ứng dụng Công nghệ sinh học được tiêu thụ mạnh ở Sóc Trăng. Bà Trịnh Hoàng Mai, Giám đốc công ty cho biết: Theo quy định, DN phải có kinh phí đối ứng là 70%. Do vốn công ty nhỏ (chủ yếu do thành viên là các nhà khoa học đóng góp) nên công ty phải huy động vốn từ các trang trại nuôi tôm. Tuy nhiên chủ các trang trại nuôi tôm lại không có thói quen lấy chứng từ, nên qua kiểm tra tài chính, vốn đối ứng của công ty mới chỉ đạt trên 20%. Vì vậy mà bà Mai đề nghị xem xét lại tỷ lệ hỗ trợ kinh phí, “có thể lên tới mức 60%”.
Chị Trần Thị Xuân, chuyên viên theo dõi, đánh giá việc hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cho DN của Bộ KH&CN cũng cho biết: Kinh phí hỗ trợ nghiên cứu cho DN được cấp thông qua Kho bạc, nơi DN đóng trụ sở chính, song do khâu xét cấp kinh phí phải qua nhiều cửa khiến tiến độ nghiên cứu bị chậm rất nhiều. Ngoài ra, quy định DN phải có vốn đối ứng 70% là nguyên nhân khiến nhiều DN muốn mà không thể nhận hỗ trợ nghiên cứu.
Và một loạt đề xuất thay đổi cơ chế tài chính để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng được TS Lê Xuân Bá nêu ra: Cho phép DN được hạch toán các khoản chi cho nghiên cứu công nghệ, đầu tư để ứng dụng công nghệ cao vào giá thành sản phẩm. Để thực hiện giải pháp này, cần quy định rõ tỷ lệ phần trăm tối đa doanh thu mà DN được phép hạch toán để chi cho hoạt động KH&CN của mình (như ký hợp đồng hợp tác nghiên cứu, bồi dưỡng nguồn lực, ứng dụng KH&CN…); cho phép DN được miễn thuế thu nhập DN đối với phần lợi nhuận thu được từ ứng dụng các kết quả nghiên cứu; miễn thuế VAT, thuế thu nhập cho các viện R&D đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ do đơn vị tạo ra; sửa cơ chế tài trợ, đầu tư Nhà nước cho KH&CN theo hướng gián tiếp (tạo điều kiện hạ tầng, quỹ đầu tư mạo hiểm…), hạn chế đầu tư trực tiếp kiểu xin – cho.
Trần Anh
(Visited 1 times, 1 visits today)