Tiểu đường trong thai kỳ làm tăng nguy cơ trẻ mắc ADHD và tự kỷ
Một nghiên cứu trên hơn 9 triệu ca mang thai cho thấy: trẻ sinh ra từ những bà mẹ mắc tiểu đường thai kỳ có nguy cơ cao hơn mắc rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và tự kỷ.
Nghiên cứu được công bố tại Hội nghị của Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh tiểu đường châu Âu ở Vienna, và hiện đang trong quá trình phản biện khoa học.
Đây không phải là nghiên cứu đầu tiên phát hiện mối liên hệ này, nhưng là một trong những nghiên cứu lớn nhất, tổng hợp dữ liệu từ 48 nghiên cứu ở 20 quốc gia. Kết quả, nghiên cứu phát hiện, trẻ có mẹ mắc tiểu đường thai kỳ có chỉ số IQ thấp hơn, nguy cơ mắc ADHD cao hơn 36% và nguy cơ mắc rối loạn phổ tự kỷ cao hơn 56%.

Tỷ lệ tự kỷ trong cộng đồng hiện được ước tính là 1/127 người, còn ADHD ảnh hưởng đến khoảng 3–10% trẻ em và thanh thiếu niên.
Kết quả này tương đồng với một phân tích tổng hợp khác đăng trên tạp chí The Lancet Diabetes & Endocrinology hồi tháng Sáu, nghiên cứu 56 triệu cặp mẹ–con, cho thấy tất cả các dạng tiểu đường trong thai kỳ (type 1, type 2 và tiểu đường thai kỳ) đều làm tăng nguy cơ trẻ mắc ADHD và tự kỷ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào chứng minh tiểu đường thai kỳ là nguyên nhân trực tiếp.
“Chắc chắn có tín hiệu về mối liên hệ này, nhưng cần thêm nghiên cứu để khẳng định,” bác sĩ sản khoa Alex Polyakov (Đại học Melbourne, Úc) nói.
Nguyên nhân của bệnh tự kỷ đã được nghiên cứu nhiều năm qua, mới đây lại trở thành tâm điểm khi tại lễ tưởng niệm nhà hoạt động Charlie Kirk, tổng thống Mỹ Donald Trump phát biểu: “Tôi nghĩ chúng ta đã tìm ra lời giải cho bệnh tự kỷ.” The Washington Post cho biết chính quyền Mỹ chuẩn bị công bố mối liên hệ giữa tự kỷ và việc dùng acetaminophen (paracetamol) trong thai kỳ – dù hiện tại các hướng dẫn y tế vẫn khẳng định thuốc này an toàn cho phụ nữ mang thai.
Theo bác sĩ – nhà khoa học Ling-Jun Li (Đại học Quốc gia Singapore), đồng tác giả của nghiên cứu mới, yếu tố di truyền vẫn là nguyên nhân mạnh nhất dẫn đến ADHD và tự kỷ. Các yếu tố môi trường – như thiếu axit folic, ô nhiễm không khí hay tiểu đường thai kỳ – chỉ ảnh hưởng từ mức nhỏ đến vừa phải. Nhưng Polyakov đồng tình rằng, “nhiều khả năng yếu tố di truyền và môi trường tương tác với nhau”.
Trong 20 năm qua, nhiều nghiên cứu đã cho thấy tiểu đường thai kỳ làm tăng nguy cơ cho sức khỏe lâu dài của phụ nữ, như tiểu đường type 2, bệnh tim mạch, đột quỵ và bệnh thận mạn tính.
Chính vì vậy, Li và cộng sự đã tổng hợp các bằng chứng về ảnh hưởng của tiểu đường thai kỳ đến sự phát triển trí tuệ và hành vi của trẻ.
Polyakov lưu ý, ngoài tiểu đường thai kỳ, có thể tồn tại nhiều yếu tố khác làm tăng nguy cơ rối loạn phát triển thần kinh: “Ví dụ phụ nữ mắc tiểu đường thai kỳ thường có tỷ lệ béo phì cao hơn, có thể hút thuốc nhiều hơn, hoặc có điều kiện kinh tế–xã hội thấp hơn.”
Một nghiên cứu quốc tế năm ngoái trên 3,6 triệu cặp mẹ–con cũng phát hiện: trẻ sinh ra từ mẹ mắc bất kỳ dạng tiểu đường nào trong thai kỳ có nguy cơ ADHD cao hơn một chút. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhận thấy nguy cơ này xuất hiện tương tự ở anh chị em ruột, dù người mẹ có bị tiểu đường thai kỳ hay không – gợi ý rằng bản thân bệnh tiểu đường thai kỳ có thể không phải nguyên nhân trực tiếp.
Polyakov kết luận, “các nghiên cứu trong tương lai nên so sánh nguy cơ giữa phụ nữ mắc tiểu đường thai kỳ nhẹ và nặng, để xem bệnh này có thực sự tác động đến nguy cơ rối loạn phát triển ở trẻ hay không.”
Ngô Thành
