Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật điện hạt nhân của Việt Nam: Liệu có cần thiết? 

Khi tiếp nhận công nghệ hạt nhân cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 từ Nga, ngoài tiêu chuẩn của Nga và tiêu chuẩn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA), Việt Nam có cần xây dựng một hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn của riêng mình không?

Công ước An toàn hạt nhân yêu cầu các quốc gia xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia phù hợp với các khuyến nghị của IAEA.

Trong tiến trình triển khai chương trình điện hạt nhân, Việt Nam đã có Luật Năng lượng nguyên tử và đang hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan để làm cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động này. Một trong những yếu tố mà các chuyên gia công nghệ hạt nhân và pháp quy hạt nhân nhấn mạnh là để đảm bảo triển khai điện hạt nhân được an toàn và bền vững thì Việt Nam, cũng như mọi quốc gia phát triển điện hạt nhân, cần có một hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được xây dựng đồng bộ và phù hợp với điều kiện trong nước. Quá trình xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật này cũng là cơ hội để Việt Nam nâng cao năng lực cho cơ quan pháp quy, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn và khẳng định vai trò chủ động của quốc gia trong các hoạt động điện hạt nhân.

Vì sao cần thiết?

Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng là một trong những khuyến nghị và yêu cầu pháp lý quốc tế mà IAEA đã đặt ra. Được biết, IAEA đã ban hành hệ thống tiêu chuẩn an toàn thuộc các lĩnh vực: an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an toàn vận hành, quản lý chất thải phóng xạ, an ninh hạt nhân, ứng phó sự cố. Những tiêu chuẩn này được xem là nền tảng pháp lý quốc tế, giúp đảm bảo các quốc gia thành viên duy trì một mức độ an toàn tối thiểu. 


Hệ thống tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam mới dừng ở mức độ ban hành một số tiêu chuẩn về địa điểm và dự thảo các tiêu chuẩn thiết kế nên còn thiếu rất nhiều nhóm tiêu chuẩn quan trọng.

Đặc biệt, Công ước An toàn hạt nhân mà Việt Nam là thành viên cũng yêu cầu các quốc gia xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia phù hợp với các khuyến nghị của IAEA. Thực tiễn cho thấy, những quốc gia mới bắt đầu như UAE, Jordan hay Bangladesh đều dựa vào IAEA để hình thành bộ khung pháp quy nội địa, đồng thời nhận hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình xây dựng văn bản. Tuy nhiên, tiêu chuẩn khuyến cáo của IAEA thường mang tính phổ quát, đưa ra các quy định tối thiểu để tất cả các quốc gia thành viên có thể chấp nhận được. 

Có một câu hỏi đặt ra ở đây là với các quốc gia nhập khẩu công nghệ hạt nhân, việc tuân thủ một cách chặt chẽ quy chuẩn, tiêu chuẩn của quốc gia xuất khẩu công nghệ vẫn chưa đủ cho an toàn hạt nhân? Thông thường, tiêu chuẩn của các quốc gia xuất khẩu công nghệ thường dựa trên những nghiên cứu giả định các điều kiện khí hậu, địa chất, hạ tầng và xã hội khác với quốc gia nhập khẩu công nghệ. Chẳng hạn, Nhật Bản có điều kiện động đất đặc thù nên tiêu chuẩn chống động đất rất khắt khe; Nga, Canada lại chú trọng điều kiện khí hậu lạnh… Vì vậy những tiêu chuẩn của họ như những ngưỡng quan trọng nhằm đảm bảo cho các nhà máy vận hành an toàn trong nhiều kịch bản khác nhau và những điều kiện môi trường, khí hậu khác nhau và cũng khác biệt so với điều kiện của các quốc gia nhập khẩu công nghệ. Các quốc gia nhập khẩu công nghệ cũng rất chú trọng vào khâu xây dựng hệ thống tiêu  chuẩn, quy chuẩn riêng. Ví dụ, tại dự án Barakah, UAE tuy áp dụng công nghệ APR-1400 của Hàn Quốc nhưng vẫn yêu cầu nhà thầu điều chỉnh thiết kế theo các tiêu chuẩn mà cơ quan pháp quy UAE ban hành. 

Triển lãm công nghệ hạt nhân tại Việt Nam vào năm 2014. Ảnh: Tư liệu.

Mỗi quốc gia có những đặc thù riêng có thể chưa được tính tới trong tiêu chuẩn nước ngoài hoặc tiêu chuẩn của IAEA. Chúng ta có thể thấy rõ, Việt Nam có hệ thống lưới điện còn hạn chế về độ ổn định, chịu nhiều tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa, bờ biển dài, mật độ dân cư cao ven biển, đồng thời chịu tác động mạnh của bão lũ và biến đổi khí hậu. Do đó, cần điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc tế, lồng ghép các yêu cầu về đánh giá khí hậu cực đoan, nước biển dâng, khả năng chịu bão lũ và năng lực sơ tán dân cư. Nếu không có sự điều chỉnh này, việc áp dụng nguyên trạng tiêu chuẩn quốc tế có thể bỏ sót rủi ro đặc thù khí hậu và môi trường. Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy sau sự cố Fukushima, quốc gia này đã sửa đổi nhiều tiêu chuẩn để tăng cường khả năng chống thiên tai.Việt Nam cần rút kinh nghiệm để xây dựng bộ tiêu chuẩn phù hợp thực tiễn trong nước.

Một yếu tố quan trọng nữa là nếu chỉ sử dụng tiêu chuẩn nước ngoài mà không có văn bản pháp quy quốc gia, Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng phụ thuộc và bị động. Trong trường hợp áp dụng tiêu chuẩn của IAEA, các quy định đó thường chỉ mang tính khung, thiếu hướng dẫn chi tiết. Vì vậy, khi đánh giá thiết kế, thẩm định an toàn hay cấp phép vận hành, cơ quan pháp quy sẽ thiếu cơ sở pháp lý để phản biện và yêu cầu điều chỉnh. Mặt khác, việc không có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nội địa khiến Việt Nam có thể trở nên yếu thế trong đàm phán với nhà thầu quốc tế. Do đó, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong nước là cách khẳng định vai trò chủ động, bảo đảm an toàn và bảo vệ lợi ích quốc gia. 


Sự thiếu hụt nhân lực này dẫn đến nguy cơ Việt Nam không thể bắt kịp tiến độ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trong trường hợp chương trình điện hạt nhân được tái khởi động.

Đáng chú ý, nếu có đầy đủ một hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của riêng mình thì khi thảo luận hợp đồng xây dựng một cơ sở hạt nhân tại Việt Nam, các bên thường dễ dàng đạt được thỏa thuận hơn. Ngược lại, trong trường hợp Việt Nam chưa có quy định pháp quy, việc đàm phán thường kéo dài và khó đi đến thống nhất. Khi đó, đối tác thường yêu cầu áp dụng quy định pháp quy của họ, kể cả khi những quy định này không phù hợp với điều kiện trong nước. Ví dụ, đối tác yêu cầu thiết kế mái nhà lò phải chịu được hàng tấn tuyết rơi vào mùa đông, trong khi Việt Nam hoàn toàn không có tuyết tại địa điểm dự kiến. Họ thậm chí kiên trì lập luận rằng biến đổi khí hậu có thể làm thay đổi thời tiết trong tương lai. Hoặc có trường hợp thiết kế không tính đến việc điều kiện nguồn nước làm mát có thể bị “đốt nóng” vào mùa hè ở khí hậu nhiệt đới, dẫn đến giảm khả năng tải nhiệt và hạn chế công suất lò phản ứng. Dù đối tác có cam kết (bằng lời hoặc bằng văn bản) rằng thiết kế đã được nhiệt đới hóa, thì những cam kết này vẫn chỉ mang tính chung chung và cần được chứng minh bằng sự phù hợp với các tiêu chuẩn cụ thể.

Việt Nam đã có gì? 

Trước khi tạm dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận vào năm 2016, Việt Nam đã sử dụng các tiêu chuẩn của IAEA để dự thảo và ban hành năm tiêu chuẩn về địa điểm. Khoảng cuối năm 2015 – đầu năm 2016, Việt Nam đã thành lập Ban Kỹ thuật TC 85 gồm 18 thành viên, có trách nhiệm rà soát, chỉnh sửa, bổ sung, trình ban hành 11 dự thảo tiêu chuẩn liên quan đến thiết kế nhà máy điện hạt nhân. Các tiêu chuẩn này cũng được dự thảo dựa theo các tiêu chuẩn của IAEA. 

Có thể thấy, khung pháp lý, pháp quy của Việt Nam được xây dựng theo cách tiếp cận “ba tầng”: 1) Luật và nghị định; 2) Thông tư; 3) Tiêu chuẩn, quy chuẩn, sổ tay kỹ thuật. Phương pháp tiếp cận hiện nay là sử dụng các tiêu chuẩn có tính bắt buộc (requirements) của IAEA để chuyển ngữ sang tiếng Việt dự thảo các thông tư; sử dụng các tiêu chuẩn có tính hướng dẫn (guides) của IAEA để dự thảo các tiêu chuẩn. Ngoài các tiêu chuẩn, IAEA còn có hệ thống các tài liệu kỹ thuật ký hiệu INSAG, NG, NP, NR, NSS, SRS, TECDOC… Một số các quốc gia đối tác như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ cũng có thể giới thiệu các tài liệu kỹ thuật có giá trị thực tiễn cho Việt Nam. 

Hệ thống tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam mới dừng ở mức độ ban hành một số tiêu chuẩn về địa điểm và dự thảo các tiêu chuẩn thiết kế nên còn thiếu rất nhiều nhóm tiêu chuẩn quan trọng. Theo danh mục của IAEA (IAEA Safety Standards Series và Nuclear Security Series), một hệ thống tiêu chuẩn hoàn chỉnh cho nhà máy điện hạt nhân phải bao trùm toàn bộ vòng đời của cơ sở hạt nhân, bao gồm: lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành, ứng phó sự cố, quản lý chất thải phóng xạ, dừng hoạt động, và an ninh hạt nhân. 

Việt Nam chưa ban hành được các thông tư về vận hành (theo SSR-2/2 Rev.1: Safety of Nuclear Power Plants – Commissioning and Operation), quản lý chất thải phóng xạ (theo SSR-5: Disposal of Radioactive Waste), ứng phó sự cố (theo GSR Part 7: Preparedness and Response for a Nuclear or Radiological Emergency). Điều này dẫn đến khoảng trống pháp lý đáng kể, khiến hệ thống chưa đáp ứng được yêu cầu của IAEA về khung pháp lý đầy đủ. Tiếp theo là hoàn thành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo các thông tư nêu trên.

“Khoảng trống” pháp lý được đề cập ở đây không chỉ nằm ở số lượng cán bộ pháp quy mà còn ở tính đồng bộ và tính cập nhật của các tiêu chuẩn và quy chuẩn so với phiên bản mới nhất về các tiêu chuẩn của IAEA. 

Những thách thức trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn

Thiếu hụt nhân lực 

Việt Nam đã từng đào tạo một đội ngũ cán bộ trẻ cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, nhưng sau khi dự án tạm dừng (năm 2016), nguồn nhân lực này bị phân tán, nhiều người chuyển ngành. Đến nay, lực lượng cán bộ có chuyên môn sâu về thiết kế, vận hành, an toàn và pháp quy hạt nhân còn rất mỏng. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế và yêu cầu của IAEA, cơ quan pháp quy quốc gia phải có đủ nhân lực chuyên sâu để thẩm định và ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn. 

Sự thiếu hụt nhân lực này dẫn đến nguy cơ Việt Nam không thể bắt kịp tiến độ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trong trường hợp chương trình điện hạt nhân được tái khởi động. Các quốc gia mới triển khai như UAE đã thành lập cơ quan pháp quy độc lập (FANR) với hàng trăm chuyên gia quốc tế và trong nước, đồng thời nhận hỗ trợ kỹ thuật từ IAEA và các đối tác. Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam cần tham khảo.

Đáng chú ý là các tiêu chuẩn của IAEA đều được xây dựng dựa trên đồng thuận quốc tế với nhiều khái niệm nguyên tắc như “defence-in-depth”, “safety culture”, “graded approach”. Việc dịch thuật các nguyên tắc này ở Việt Nam còn bất cập, chưa có cơ chế thống nhất để bảo đảm chuẩn xác và nhất quán. Một số thuật ngữ vì thế được hiểu khác nhau giữa các văn bản. Bởi dịch tài liệu hạt nhân không chỉ là chuyển ngữ, mà cần am hiểu nội dung khoa học và pháp quy. Ví dụ, “defence-in-depth” có thể dịch thành “phòng thủ theo chiều sâu”. Trong Luật Năng lượng nguyên tử hiện nay, thuật ngữ này được dịch là “bảo vệ theo chiều sâu”. Khi thảo luận Luật mới (6/2025), có ý kiến đề xuất dùng “phòng thủ” để đồng bộ với Luật Phòng thủ dân sự, nhưng chưa được chấp nhận. Những khác biệt nhỏ về từ ngữ này cho thấy nếu người dịch không am hiểu sâu, dễ dẫn đến sai lệch tinh thần và áp dụng không chính xác.

Để xây dựng tiêu chuẩn cần các chuyên gia am hiểu thiết kế, vận hành và an toàn hạt nhân. Việc thiếu hụt nhân lực dẫn đến chậm trễ trong việc thẩm định và ban hành văn bản. Thực tế, nhiều quốc gia khi nội luật hóa tiêu chuẩn IAEA đều có các nhóm chuyên gia song ngữ vừa am hiểu pháp quy vừa có nền tảng kỹ thuật hạt nhân để xử lý. Việt Nam hiện mới dừng ở mức “dịch kỹ thuật”, thiếu các nhóm chuyên gia pháp quy hạt nhân chuyên sâu. Điều này làm hạn chế khả năng tiếp thu trọn vẹn tinh thần các tài liệu của IAEA. IAEA hiện có hơn 130 tiêu chuẩn an toàn cùng hàng loạt tài liệu hướng dẫn chuyên ngành. Do đó, nếu không có đội ngũ chuyên trách, việc triển khai nội luật hóa sẽ chậm trễ và thiếu chính xác.

Giải pháp tạm thời để khắc phục có thể là mời chuyên gia quốc tế trong giai đoạn đầu để hỗ trợ đào tạo, đảm bảo tiến độ. Tuy nhiên, cũng cần lực lượng chuyên gia “cốt lõi” trong nước có am hiểu về hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam, có trình độ cao về chuyên môn, đồng thời có văn phong pháp quy phù hợp để truyền tải kiến thức giữa chuyên gia quốc tế và các cán bộ trẻ, vừa tạo ra nguồn nhân lực cho tương lai, vừa tạo ra sản phẩm là các thông tư – tiêu chuẩn – quy chuẩn kỹ thuật cụ thể (xem thêm nội dung công việc trong Bảng 1: Lộ trình đề xuất). Hình thức đào tạo như on-the-job training ngay tại Việt Nam.

Khó khăn trong phối hợp liên ngành

Hệ thống điện hạt nhân liên quan đến nhiều bộ, ngành: Bộ KH&CN, Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an… Nếu không có cơ chế phối hợp hiệu quả, sẽ dẫn đến chồng chéo, tranh cãi về thẩm quyền và kéo dài thời gian ban hành tiêu chuẩn. Bài học từ các nước cho thấy cần có một cơ quan pháp quy hạt nhân mạnh, có vai trò điều phối trung tâm.

Khi Ban Kỹ thuật TC 85 làm việc chung, đã nảy sinh tranh luận về cụm từ “đặc tính kỹ thuật và yêu cầu” trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Các thành viên thuộc nhiều bộ, ngành khác nhau nên có cách hiểu vấn đề khác nhau. Một số cho rằng tiêu chuẩn của IAEA không phù hợp vì thiếu các “đặc tính kỹ thuật” mang tính số liệu cụ thể. Sau nhiều thảo luận, nhóm mới thống nhất rằng các “đặc tính kỹ thuật” và “yêu cầu” hoàn toàn có thể thể hiện dưới dạng mô tả, theo phong cách của tiêu chuẩn IAEA, chứ không nhất thiết phải là con số.

Giải quyết những vấn đề này đem lại lợi ích gì?

Mặc dù sẽ gặp nhiều thách thức trong giải quyết các vấn đề liên quan đến xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn cho Việt Nam nhưng việc giải quyết được các vấn đề này lại đem lại nhiều lợi ích.

Thứ nhất, việc dịch và chuyển ngữ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc tế, đặc biệt là từ hệ thống các tiêu chuẩn của IAEA, không chỉ đơn thuần là một công việc thuần túy về ngôn ngữ mà chính là quá trình đào tạo và tự đào tạo, qua đó giúp cán bộ của cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân và các cơ quan liên quan hiểu rõ tinh thần, cấu trúc, cũng như nội hàm kỹ thuật – pháp lý của từng văn bản. Khi tham gia chuyển ngữ, cán bộ phải tìm hiểu sâu, trao đổi với chuyên gia trong và ngoài nước, từ đó nâng cao năng lực chuyên môn. Điều này phù hợp với cách tiếp cận của IAEA, coi việc xây dựng văn bản quốc gia là một công cụ đào tạo quan trọng, giúp cơ quan pháp quy ngày càng trưởng thành. Việc này có thể được thực hiện qua on-the-job training ngay tại Việt Nam với các chuyên gia quốc tế được đề xuất ở tiểu mục IV.3.

Thứ hai, quá trình xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn cũng đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên: cơ quan quản lý, cơ sở nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Mỗi nhóm mang lại một góc nhìn: nghiên cứu lý thuyết, kinh nghiệm thực tiễn, nhu cầu đào tạo và yêu cầu triển khai thực tế. Việc phối hợp này tạo nên một mạng lưới chuyên gia đa ngành, vừa phục vụ trực tiếp công tác xây dựng văn bản, vừa đặt nền tảng cho hệ sinh thái nhân lực hạt nhân bền vững. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước triển khai thành công điện hạt nhân như Hàn Quốc, Nhật Bản, UAE đều dựa vào sự phối hợp chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp để hình thành đội ngũ chuyên gia hạt nhân vững mạnh.

Mạng lưới chuyên gia cần được xây dựng dần từ lực lượng nhỏ hiện có, thông qua đào tạo và cùng tham gia dự thảo những tiêu chuẩn, quy chuẩn đầu tiên. Trong giai đoạn ngắn hạn, mô hình phối hợp giữa chuyên gia pháp quy trong nước, cán bộ trẻ có chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia quốc tế là cách làm phù hợp.

Thứ ba, quá trình xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia đầy đủ và đồng bộ cũng sẽ cho phép Việt Nam chủ động trong các cuộc đàm phán, thẩm định và phản biện công nghệ do các đối tác quốc tế đề xuất. Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào tiêu chuẩn nước ngoài, cơ quan pháp quy và các chuyên gia trong nước có cơ sở pháp lý để yêu cầu điều chỉnh thiết kế, công nghệ theo điều kiện đặc thù của Việt Nam. Điều này giúp bảo đảm an toàn, hiệu quả kinh tế và lợi ích quốc gia. Đồng thời, thông qua quá trình phản biện, đội ngũ chuyên gia Việt Nam sẽ tích lũy thêm kinh nghiệm, tiến tới từng bước làm chủ công nghệ. Đây cũng chính là thông lệ mà IAEA khuyến khích các quốc gia mới tham gia chương trình điện hạt nhân áp dụng.

Một lợi ích quan trọng khác là việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn sẽ đặt nền móng cho công tác vận hành, bảo dưỡng, đánh giá sự cố. 

Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật không chỉ phục vụ giai đoạn thiết kế và xây dựng, mà còn đóng vai trò cốt lõi trong vận hành, tuyển chọn và đào tạo nhân viên, bảo dưỡng và kiểm tra định kỳ, sẵn sàng và ứng phó khẩn cấp, quản lý chất thải phóng xạ, cũng như chấm dứt hoạt động cơ sở. Khi Việt Nam có bộ tiêu chuẩn quốc gia phù hợp, theo khuyến nghị của IAEA, được minh bạch hóa, cơ sở vận hành sẽ dễ dàng tuân thủ và cơ quan pháp quy có công cụ giám sát hiệu quả. Việc tiêu chuẩn hóa ở tất cả các giai đoạn, các hoạt động giúp giảm thiểu rủi ro, nâng cao mức độ an toàn và tăng cường niềm tin xã hội đối với điện hạt nhân.

Tóm lại, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn trong nước không chỉ đáp ứng yêu cầu pháp lý và kỹ thuật, mà còn mang lại nhiều lợi ích chiến lược: nâng cao năng lực quốc gia, củng cố đội ngũ chuyên gia, bảo đảm chủ động công nghệ, và tạo tiền đề cho vận hành an toàn, bền vững.

Đề xuất và lộ trình xây dựng

Xây dựng lộ trình phát triển hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn cho điện hạt nhân

IAEA đã xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn an toàn bao gồm các yêu cầu và hướng dẫn chi tiết cho toàn bộ vòng đời của nhà máy điện hạt nhân. Việc tuân thủ những tiêu chuẩn này không chỉ là khuyến nghị, mà còn là điều kiện tiên quyết để quốc gia được công nhận là vận hành năng lượng hạt nhân một cách an toàn, có trách nhiệm. Các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, hay UAE đều lấy bộ tiêu chuẩn của IAEA làm nền tảng, sau đó xây dựng tiêu chuẩn quốc gia phù hợp. Điều này cho thấy, Việt Nam không thể chỉ dừng ở việc tham khảo mà cần có bộ tiêu chuẩn riêng, dù ban đầu vẫn dựa trên chuyển ngữ từ quốc tế.

Để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với năng lực hiện tại của Việt Nam, cần xây dựng lộ trình nhiều giai đoạn. Việc xây dựng lộ trình không chỉ giúp phân bổ hợp lý nguồn lực, mà còn cho phép đánh giá kết quả theo từng giai đoạn, điều chỉnh kịp thời. Cách tiếp cận này phù hợp với khuyến nghị của IAEA (GSR Part 1: Governmental, Legal and Regulatory Framework for Safety) và kinh nghiệm của các quốc gia đi trước như Hàn Quốc, UAE.

Bảng 1: Lộ trình đề xuất

Giai đoạnNội dung công việcKết quả
mong đợi
Cơ chế giám sát, đánh giá định kỳ
Ngắn hạn
(1-2 năm)
– Rà soát toàn bộ danh mục tiêu chuẩn IAEA (Safety và Security). – Chỉnh sửa, bổ sung các thông tư số 13/2009/TT-BKHCN, số 28/2011/TT-BKHCN về địa điểm (theo SSR-1), thông tư về thiết kế (theo SSR-2/1 Rev.1), ban hành thông tư về vận hành (theo SSR-2/2 Rev.1), thông tư hướng dẫn nội dung và thẩm định báo cáo phân tích an toàn (SAR); lựa chọn các tiêu chuẩn ưu tiên hướng dẫn theo các thông tư đó. – Thành lập nhóm chuyên trách dịch, chuyển ngữ và thẩm định ban đầu. – Ban hành các tiêu chuẩn nền tảng cho đánh giá địa điểm, thẩm định thiết kế sơ bộ, thiết kế cơ sở, thẩm định SAR.Bộ tiêu chuẩn nền tảng phục vụ tái khởi động chương trình điện hạt nhân, đồng thời giúp xây dựng năng lực dịch và thẩm định ban đầu.– Bộ KH&CN chủ trì rà soát định kỳ 6 tháng/lần; – Báo cáo tiến độ lên Chính phủ và với IAEA để đảm bảo phù hợp với khuyến nghị quốc tế
Trung hạn
(3-5 năm)
Ban hành các thông tư về quản lý chất thải phóng xạ (theo SSR-5), ứng phó sự cố (theo GSR Part 7) và lựa chọn các tiêu chuẩn ưu tiên hướng dẫn theo các thông tư đó. – Hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Lưu ý dự thảo, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định: – Thiết lập cơ chế phối hợp liên Bộ, ngành. – Đào tạo và hình thành mạng lưới chuyên gia trong nước. – Chuyển đổi số. – Hệ thống phản hồi kinh nghiệm vận hành (OPEX) quốc gia.Khung pháp lý tương đối toàn diện, cơ quan pháp quy có năng lực phản biện, thẩm định công nghệ; đội ngũ chuyên gia được củng cố.– Đánh giá hằng năm bởi Hội đồng liên bộ; – Mời chuyên gia IAEA và quốc tế tham gia rà soát để cập nhật tiến bộ kỹ thuật, điều chỉnh kịp thời lộ trình.
Dài hạn
(6 năm trở lên)
– Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn bao phủ toàn bộ vòng đời nhà máy điện hạt nhân: thiết kế, xây dựng, vận hành, chấm dứt hoạt động, quản lý chất thải, an ninh hạt nhân. Chú ý – Từng bước tham gia soạn thảo, đóng góp cho hệ thống tiêu chuẩn quốc tế của IAEA. – Xây dựng các bộ sổ tay kỹ thuật chuyên sâu phục vụ vận hành và ứng phó sự cố. – Đảm bảo hài hòa tiêu chuẩn Việt Nam với thông lệ quốc tế.Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia hoàn chỉnh, tiệm cận thông lệ quốc tế; Việt Nam có năng lực làm chủ công nghệ và pháp quy.– Đánh giá định kỳ 2 năm/lần, kết hợp với các chương trình IRRS/INIR của IAEA; – Điều chỉnh khung pháp quy dựa trên kết quả vận hành thực tế và phản hồi của cộng đồng quốc tế.

Nguồn: Tác giả đề xuất trên cơ sở khuyến nghị của IAEA

Tăng cường các hoạt động cụ thể, phối hợp

Trước hết, thành lập nhóm chuyên trách, đa ngành để dịch, chuyển ngữ, thẩm định tiêu chuẩn. Nhóm này cần gồm cán bộ pháp quy, chuyên gia kỹ thuật hạt nhân, dịch giả chuyên ngành và đại diện từ các bộ, ngành liên quan. Nhóm phải có cơ chế phối hợp chặt chẽ, được hỗ trợ bởi các chương trình đào tạo của IAEA và các nước đối tác.

Để nâng cao năng lực, cần mở rộng hợp tác quốc tế với IAEA và các quốc gia có kinh nghiệm thông qua các diễn đàn kỹ thuật của IAEA, ký kết thỏa thuận hợp tác với cơ quan pháp quy các nước có kinh nghiệm như Hàn Quốc (KINS), Nhật Bản (NRA), UAE (FANR). Đồng thời, tận dụng các chương trình hỗ trợ kỹ thuật (Technical Cooperation – TC) của IAEA như các chương trình Integrated Regulatory Review Service (IRRS) và Integrated Nuclear Infrastructure Review (INIR). Đây là công cụ IAEA thường sử dụng để đánh giá và hỗ trợ các quốc gia thành viên.

Song song với quá trình xây dựng tiêu chuẩn để giải quyết nút thắt nhân lực, cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về kỹ thuật và pháp quy hạt nhân, bao gồm kỹ sư hạt nhân, chuyên gia pháp quy, chuyên gia an toàn bức xạ. Việc đào tạo này gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực hạt nhân quốc gia để có tính dài hạn. Đây là yếu tố quyết định để bảo đảm tính bền vững của hệ thống tiêu chuẩn.

Để giải quyết vấn đề hợp tác liên ngành, cần xây dựng cơ chế phối hợp liên bộ.


Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn trong nước không chỉ đáp ứng yêu cầu pháp lý và kỹ thuật, mà còn mang lại nhiều lợi ích chiến lược: nâng cao năng lực quốc gia, củng cố đội ngũ chuyên gia, bảo đảm chủ động công nghệ, và tạo tiền đề cho vận hành an toàn, bền vững.

Hệ thống điện hạt nhân có tính liên ngành rất cao. Do đó, cần một cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ KH&CN (cơ quan đầu mối), Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an… Cơ chế này cần rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm, quy trình phối hợp nhằm tránh chồng chéo và bảo đảm tiến độ ban hành văn bản.

Kết luận

Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho điện hạt nhân không chỉ nhằm đáp ứng các cam kết quốc tế và yêu cầu của IAEA, mà còn mang lại lợi ích chiến lược cho Việt Nam: nâng cao năng lực quản lý, chủ động trong lựa chọn công nghệ, củng cố niềm tin xã hội và bảo đảm an toàn cho con người và môi trường. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mọi quốc gia triển khai điện hạt nhân thành công đều xây dựng được một khung pháp quy vững chắc, trong đó hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đóng vai trò cốt lõi.


Việt Nam nên khuyến khích cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân quốc gia, chủ đầu tư, tổ chức vận hành ban hành “sổ tay kỹ thuật” theo các tài liệu kỹ thuật đó. Sổ tay kỹ thuật có thể được sử dụng như một công cụ trung gian giữa tiêu chuẩn quốc tế và áp dụng thực tiễn tại cơ sở hạt nhân. Các sổ tay kỹ thuật có thể hoàn thiện, “nâng cấp” thành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong tương lai.

Với quyết tâm chính trị, sự chuẩn bị bài bản, lộ trình hợp lý và phối hợp liên ngành chặt chẽ, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đồng bộ, tiệm cận thông lệ quốc tế, làm nền tảng cho việc tái khởi động chương trình điện hạt nhân và bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi năng lượng và biến đổi khí hậu. Đây là bước đi không thể trì hoãn nếu Việt Nam muốn chủ động về năng lượng sạch và bền vững trong thế kỷ 21.

Một khung pháp quy vững chắc hôm nay là bảo chứng cho an toàn và phát triển bền vững điện hạt nhân Việt Nam mai sau.□

————

Khung pháp lý, pháp quy của Việt Nam được xây dựng theo cách tiếp cận “ba tầng”. 

Ở tầng thứ nhất là luật và nghị định. Hiện nay, Việt Nam đã có Luật Năng lượng nguyên tử và đang dự thảo các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết điều, khoản, điểm và các nội dung khác được giao trong Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

Ở tầng thứ hai là thông tư. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết điều, khoản, điểm và các nội dung khác được giao trong Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Thông tư cũng quy định các biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình; phân cấp và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp.

Việt Nam đã ban hành các thông tư về nhà máy điện hạt nhân, bao gồm:

– Thông tư số 13/2009/TT-BKHCN “Hướng dẫn đánh giá sơ bộ về an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân trong giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư”.

– Thông tư số 28/2011/TT-BKHCN “Quy định về yêu cầu an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân”.

– Thông tư số 30/2012/TT-BKHCN “Quy định yêu cầu về an toàn hạt nhân đối với thiết kế nhà máy điện hạt nhân”.

Tầng 3: Tiêu chuẩn, quy chuẩn, sổ tay kỹ thuật

Theo giải thích từ ngữ của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam:

– Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong các hoạt động kinh tế – xã hội. Tiêu chuẩn do cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.

Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong các hoạt động kinh tế – xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác; bảo đảm tuân thủ cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và không tạo rào cản không cần thiết cho thương mại.

———–

* TS. Lê Chí Dũng là chuyên gia Viện NLNTVN.

Bài đăng Tia Sáng số 19/2025

Tác giả

(Visited 277 times, 1 visits today)