Edison của Y học

Các nghiên cứu cơ bản thường tốn kém, rủi ro, dễ bị giới doanh nghiệp tránh né hợp tác nên nhiều cơ hội tiềm năng không được khai phá. Nhưng vẫn có những người phá cách, đó là nhà hóa học Bob Langer, Học viện Công nghệ Masachuset (MIT), người biến phòng thí nghiệm của mình trở thành một trong những cơ sở nghiên cứu năng suất và lợi nhuận cao nhất thế giới bằng cách tự bắc cầu vượt qua “thung lũng chết” đưa nghiên cứu cơ bản đến thị trường.


Bob Langer là người tiên phong trong lĩnh vực phân phối thuốc phóng thích có kiểm soát và kỹ nghệ mô. Ảnh minh họa của Wired. 

Một buổi sáng vào năm 2016, James Dahlman đến văn phòng của Bob Langer tại Viện Nghiên cứu tích hợp về ung thư Koch của MIT để nói lời từ biệt với người hướng dẫn của mình.

“Hãy là điều gì đó thật lớn lao, thực sự thay đổi thế giới,” Bob Langer nói.

Đó không chỉ là lời truyền cảm hứng cho học trò cũ. Đó là lý tưởng dẫn dắt chính bản thân Langer, một kỹ sư hóa học và là người tiên phong trong lĩnh vực phân phối thuốc phóng thích có kiểm soát và kỹ nghệ mô, trong suốt sự nghiệp bốn thập kỷ của ông tại MIT. Phòng thí nghiệm của ông (Langer’s Lab) là một trong những đơn vị nghiên cứu năng suất nhất trên thế giới.

Bất kỳ nhà lãnh đạo các nhóm tinh hoa thuộc các lĩnh lực khác nhau: học thuật, doanh nghiệp, chính phủ, đều có thể học hỏi nhiều điều từ mô hình quản trị của Langer. Ông đưa ra cách tiếp cận năm mũi nhọn đẩy nhanh nhịp độ nghiên cứu và vượt qua được “thung lũng chết” ngăn cách học thuật và thương mại hóa, để đưa ra được sản phẩm ứng dụng vào đời sống thực. Ông có phong cách lãnh đạo hài hòa giữa tự do và hỗ trợ, tích cực đưa ra các phương pháp tạo thuận lợi cho sự hợp tác đa ngành, đồng thời thu hút được nhân sự khoa học và các khoản tài trợ ngắn hạn.

Langer đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc: Chỉ số H-index đo lường số lượng xuất bản khoa học được trích dẫn của ông ở mức 230, cao hơn bất kỳ kỹ sư nào từ trước đến nay. Với hơn 1.100 bằng sáng chế mà ông được cấp phép sử dụng trực tiếp và thứ cấp cho hơn 300 công ty công nghệ sinh học, hóa chất, dược phẩm, thiết bị y tế, đã khiến ông có biệt danh “Thomas Edison của y học”. Một mình hoặc cộng tác, phòng thí nghiệm của ông đã tạo ra 40 công ty, trong đó 39 đang tồn tại độc lập hoặc được sáp nhập, mua lại, với tổng giá trị khoảng 23 tỷ USD, chưa bao gồm Living Proof, công ty chuyên về các sản phẩm tóc mà Unilever mua lại với giá không được tiết lộ.

Sản phẩm cuối cùng của phòng thí nghiệm chính là con người. Khoảng 900 nhà nghiên cứu sau đại học đã tiếp tục sự nghiệp nổi bật của mình trong các lĩnh vực học thuật, kinh doanh và đầu tư mạo hiểm: 14 người là viện sĩ Viện Kỹ sư quốc gia, 12 người là viện sĩ Viện Y học quốc gia Hoa Kỳ.

 

Tập trung vào các vấn đề tạo tác động lớn

 

Một trong những thần chú của Langer khi lựa chọn dự án: Hãy xem xét tác động tiềm tàng đối với xã hội, chứ không phải tiền bạc. Ý tưởng ở đây là khi bạn tạo ra được thứ gì đó thật đặc biệt, khách hàng và tiền sẽ tự tìm đến. Đó là sự khác biệt sâu sắc so với cách tiếp cận của doanh nghiệp: Nếu ý tưởng về một sản phẩm hoàn toàn mới đến mức không thể dự đoán được lợi nhuận mà nó có thể đem về (điều mà hầu hết mọi nghiên cứu tham vọng đều phải trải qua), họ sẽ không theo đuổi hoặc từ bỏ ngay khi vướng trở ngại.

Đối với Langer, “tác động” nghĩa là số người mà một phát minh có thể giúp đỡ. Theo công ty đầu tư mạo hiểm Polaris Partners, các doanh nghiệp về khoa học sự sống xuất phát từ phòng thí nghiệm của ông có tiềm năng chạm đến cuộc sống của 4.7 tỷ người. Ví dụ, năm 1996, phòng thí nghiệm đã tạo ra tấm wafer có thể cấy vào não để phân phối thuốc hóa trị vào trực tiếp bề mặt u nguyên bào thần kinh đệm. Một phương pháp khác – vừa được bàn giao cho Sigilon, một doanh nghiệp mới có trụ sở tại Cambridge, MA – có tiềm năng chữa bệnh đái tháo đường type 1, được phát triển thông qua hợp tác của các nhà nghiên cứu từ các trường đại học khác nhau. Họ tìm cách bọc các tế bào beta tụy trong màng polymer để bảo vệ chúng khỏi hệ miễn dịch, đồng thời cho phép chúng phát hiện nồng độ đường huyết để phóng thích lượng insulin thích hợp.

Với các dự án cụ thể và tham vọng như thế, đúng vậy, khách hàng tự tìm đến: các tổ chức, các công ty, nhà khoa học từ phòng thí nghiệm khác, cơ quan chính phủ, bao gồm cả Viện Sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ NIH. Các tổ chức và công ty đang tài trợ 63% trong ngân sách hằng năm 17.3 triệu USD của phòng thí nghiệm, từ quỹ Bill & Melinda Gates, quỹ ung thư tuyến tiền liệt, cho đến tập đoàn dược phẩm Novo Nordicsk và Hoffmann-La Roche. Dan Hartman, Giám đốc Phát triển tích hợp và Bệnh sốt rét của quỹ Gates và là người liên lạc với phòng thí nghiệm cho biết: “Một lý do chính khiến chúng tôi quyết định làm việc với Bob là thành tựu của anh ấy về nghiên cứu kiểm soát sự phân phối thuốc trong cơ thể”. “Năng lực sáng tạo và trình độ kỹ thuật chuyên môn không hề bị phóng đại quá mức”.


Nữ hoàng Anh trao giải thưởng về kỹ thuật và đổi mới sáng tạo Queen Elizabeth Prize for Engineering cho Langer vào năm 2015. Theo tờ Wired thống kê, Langer  đã được trao 220 giải thưởng khác nhau. 

Tiêu chí thứ hai để lựa chọn dự án là phải phù hợp với các lĩnh vực cốt lõi của phòng thí nghiệm: phân phối thuốc, phát triển thuốc, kỹ nghệ mô, vật liệu sinh học.

Thứ ba, ông luôn đánh giá liệu các thách thức y học và khoa học có thể vượt qua được bằng cách áp dụng rộng rãi các kiến thức khoa học đương đại, phòng thí nghiệm có thể tự lực hay cần phối hợp với các đơn vị khác.

Cách tiếp cận này đối lập với quy trình tuyến tính ba bước: Nghiên cứu cơ bản (đơn thuần mở rộng tri thức khoa học tự nhiên mà không quan tâm đến khía cạnh thực tế), chuyển hóa nó thành nghiên cứu ứng dụng (cố gắng giải quyết các vấn đề thực tế), rồi mới phát triển thương mại hóa, cuối cùng đạt đến đỉnh cao là sản xuất quy mô hàng loạt. Kể từ chiến tranh, các trường đại học vẫn chiếm khoản lớn nhất trong tổng ngân sách nghiên cứu cơ bản, nhưng các doanh nghiệp cũng góp phần: AT&T, Corning, DuPont, IBM, là những cái tên tiêu biểu. Tuy nhiên, các công ty lớn nhận ra tự mình nghiên cứu là điều quá rủi ro và tốn kém, kết quả chậm và khó đoán, mà chưa chắc đã đem lại giá trị. Thế là họ chuyển sang mua hoặc xin giấy phép các phát minh hoặc đầu tư và thâu tóm các công ty khởi nghiệp, hoặc tài trợ các nghiên cứu hoặc gửi nhà khoa học của họ đến các phòng thí nghiệm học thuật.

Từ giữa thế kỷ XIX trở đi, một số nhà nghiên cứu đã tiên phong thúc đẩy khoa học cơ bản trong khi giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách. Nhà khoa học chính trị Donald E. Stokes từ Đại học Princeton đã hình tượng hóa không gian làm việc của họ: một “một góc riêng của Pasteur”, nhằm nhắc lại rằng Pasteur luôn theo đuổi hiểu biết cơ bản về vi sinh vật để tìm cách chống lại bệnh tật và ngăn thực phẩm bị hỏng. Tại phòng thí nghiệm của Bell, các nhà khoa học đã có những khám phá cơ bản trong khi cải tiến và mở rộng hệ thống thông tin liên lạc. Cơ quan các dự án nghiên cứu quốc phòng nâng cao Hoa Kỳ DARPA là một trong những tổ chức đổi mới thành công nhất.

Phòng thí nghiệm của Langer cũng thuộc kiểu “một góc riêng của Pasteur”. Mặc dù các nhà nghiên cứu dành phần lớn nỗ lực cho khoa học ứng dụng và kỹ thuật để giải quyết các vấn đề quan trọng, nhưng trong quá trình này, họ thường đẩy xa thêm hiểu biết về khoa học cơ bản. Một trong những khám phá quan trọng nhất của Langer là cách phóng thích các thuốc phân tử lớn trong cơ thể thông qua polymer xốp với liều lượng và thời gian phù hợp trong nhiều năm. Điều này liên quan đến sự mở rộng hiểu biết về lý thuyết thấm trong toán và vật lý.

Rất hiếm các công ty liên kết nghiên cứu cơ bản với các ứng dụng lớn trong thế giới thực. Một số ngoại lệ đáng chú ý – nỗ lực của Corning về truyền tin lượng tử và vật liệu bắt giữ khí CO2, IBM về điện toán nhận thức và thành phố thông minh, Alphabet về chăm sóc sức khỏe và xe tự lái. Nếu giải quyết được các vấn đề lớn của xã hội, bạn thực sự sẽ kiếm được rất nhiều tiền.

 

Xây cây cầu bắc qua “thung lũng chết”

 

Chọn đúng dự án để theo đuổi chỉ là bước đầu tiên; con đường hiện thực hóa còn dài và gian nan. Langer đã có công thức đặc trị để các nghiên cứu từ giai đoạn đầu có thể băng qua “thung lũng chết” để đến bước phát triển thương mại.

 

Tập trung vào “các công nghệ nền tảng” – đa ứng dụng

Nhiều phòng thí nghiệm của doanh nghiệp lẫn học thuật chỉ muốn giải quyết các vấn đề cụ thể trước mắt, trong khi Langer lại có tầm nhìn xa trông rộng. Terry McGuire, đối tác sáng lập của Polaris, cho biết ngoài việc tạo ra thị trường rộng lớn hơn, chiến lược này cũng mở ra các ứng dụng ngoài dự kiến. Ví dụ, Momenta, công ty ra đời năm 2001 để khai thác các phương pháp mới nhằm hiểu biết và điều chỉnh cấu trúc phân tử đường, ban đầu thiết kế các trình tự heparin để điều trị bệnh như ung thư và mạch vành. Tuy nhiên, nó đã sớm nhận ra có thể ứng dụng công nghệ mới để xác lập cấu trúc phức tạp của phân tử lovenox (heparin trọng lượng phân tử thấp). Nghiên cứu này đã tạo ra một sản phẩm sinh học ngăn ngừa và điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu, tạo doanh thu hơn 1 tỷ USD trong năm đầu tiên, và tăng lên nhiều tỷ USD hiện nay.

Các nhà khoa học có thể nghĩ ra nhiều ứng dụng từ một nghiên cứu. Langer đã có ý tưởng về vi mạch cấy ghép có thể giải phóng thuốc trong nhiều năm và có thể điều khiển bên ngoài cơ thể khi xem chương trình truyền hình về chất bán dẫn, ông còn nghĩ đến việc đưa chúng vào ti vi để phát ra mùi hương nhằm nâng cao trải nghiệm người xem.

 

Đăng ký bằng sáng chế phổ rộng

MIT đã là nơi tiên phong trong việc xin và cấp phép các phát minh học thuật nhưng Langer là một trường hợp đặc biệt xuất sắc vượt trội, ông theo đuổi các bằng sáng chế mạnh. Mục tiêu của ông là giới hạn, hoặc ngăn chặn đối thủ đòi quyền lợi trên các địa hạt mà các công ty sẵn sàng bỏ tiền để thương mại hóa, thường gồm các khoản đầu tư đắt tiền cho thử nghiệm lâm sàng và vượt xa chi phí nghiên cứu ban đầu.


Một “sản phẩm” đáng giá của Bob Langer, Living Proof, công ty chuyên về các sản phẩm tóc mà Unilever mua lại với giá không được tiết lộ. Trong ảnh: Diễn viên Jennifer Aniston, người đồng sở hữu của Living Proof kiểm tra sản phẩm thử. Ảnh: wsj.com.

Xuất bản trên các tạp chí uy tín

Hiện diện trên một tạp chí uy tín như Nature hoặc Science là sự xác nhận và quảng bá cho tính đúng đắn và tầm quan trọng của khám phá, không chỉ đối với học giả khác mà còn với giới đầu tư kinh doanh tiềm năng.

 

Nhưng đừng đẩy các khám phá ra khỏi phòng thí nghiệm quá nhanh

Lý do rất dễ hiểu: để tăng khả năng hiệu quả và tối thiểu hóa khả năng thất bại khi mở rộng quy mô và thương mại hóa trong tương lai.

Ví dụ một nghiên cứu ứng dụng sóng siêu âm để phân phối nhanh nhiều nhóm thuốc điều trị, gồm thuốc phân tử nhỏ, đại phân tử, nucleic acid, trực tiếp đến đường tiêu hóa thay vì tiêm như trước đây. Mặc dù có những kết quả hứa hẹn ban đầu và các nhà khoa học của phòng thí nghiệm háo hức để thương mại hóa nhưng Langer quyết định trì hoãn. Ông yêu cầu tiếp tục chứng minh tính an toàn của nó trong các nghiên cứu điều trị dài ngày trên động vật kích thước lớn và phát triển các công thức mới để nâng cao hiệu quả phân phối thuốc.

Nghiên cứu bổ sung, không bị sức ép từ thời gian thương mại hóa, đã được đền đáp. Sau hơn 18 tháng, phòng thí nghiệm đã chứng minh công nghệ này có thể phân phối một loại thuốc hoàn toàn mới (nucleic acid không màng bọc), mở ra ứng dụng tiềm năng lớn. Nhóm đã xuất bản nhiều bài báo trên các tạp chí được bình duyệt ngang hàng, cung cấp bằng chứng rằng dữ liệu gốc là đáng tin cậy và có thể tái lập. Chỉ khi đó, Langer mới đồng ý gây quỹ cho một công ty mới, Suono Bio, để tiếp quản công việc phát triển tiếp theo.

 

Khen thưởng xứng đáng

MIT thưởng cho nhà phát minh 1/3 thu nhập từ tiền bản quyền sau các chi phí và lệ phí. Phần còn lại được chuyển đến các phòng ban hoặc trung tâm nghiên cứu, văn phòng bản quyền công nghệ của MIT và quỹ chung của trường. Trong những thập kỷ gần đây, ngày càng nhiều trường đại học đưa ra các chính sách tương tự, nhưng cách tiếp cận này vẫn rất bất thường trong giới doanh nghiệp.

 

Sự tham gia của các nhà nghiên cứu trong việc thương mại hóa

Trong thời gian qua, nhiều thành viên của phòng thí nghiệm đã rời vị trí cũ để gia nhập các công ty kế thừa dự án của họ, nơi niềm đam mê của họ trong việc đưa công nghệ ra thị trường cũng quan trọng như việc phát triển trình độ chuyên môn. Langer cho biết “một trong những lý do khiến nhiều công ty thành công là nhờ có sự đồng hành của các học trò của chúng tôi, bởi họ tin tưởng những điều mình đã làm trong phòng thí nghiệm và muốn biến nó thành hiện thực”. Các nhà nghiên cứu khác nhận tư vấn cho các công ty khi vẫn có công việc tại phòng thí nghiệm này hoặc sau khi chuyển sang trường đại học khác. Bản thân Langer tham gia 10 hội đồng quản trị của các công ty khởi nghiệp từ chính nghiên cứu của ông. Các trường đại học ngày càng nới lỏng hạn chế đối với các giáo sư tham gia dự án thương mại, thậm chí còn khuyến khích thông qua các đơn vị ươm mầm và hỗ trợ. Nhưng vẫn còn những cảm xúc lẫn lộn tại nhiều nơi, chưa xây dựng được văn hóa khởi nghiệp giống với MIT. Còn trong giới doanh nghiệp, sự tham gia quá sâu vào quá trình thương mại của các nhà nghiên cứu là điều rất bất thường.
 


Nguồn ảnh: bostonherald
“Tôi muốn giải quyết các vấn đề có thể thay đổi thế giới và biến nó thành nơi tốt đẹp hơn. Đó là mục đích khoa học xuyên suốt cuộc đời tôi. Các công ty mà tôi giúp đỡ tạo dựng là phần khuếch tán tự nhiên ra đời sống thực. Các công ty có thể áp dụng mô hình và giá trị của phòng thí nghiệm Langer để trở thành nơi tốt đẹp hơn và kiếm được nhiều tiền hơn”. Bob Langer

 

Xây dựng đội ngũ hợp tác đa ngành

Một nhóm nghiên cứu về một thiết bị phân phối thuốc đường uống nằm sẵn trong dạ dày và từ từ phóng thích thuốc trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng được ra đời với nguyên mẫu ban đầu có thiết kế hình ngôi sao. Sau đó, một kỹ sư cơ khí có kinh nghiệm đã tham gia nhóm và bắt đầu chất vấn. Tại sao không phải hình dạng khác? Nhóm nghiên cứu đã đánh giá một số lựa chọn, bao gồm hình lục giác và nhiều loại hình sao khác nhau, và nhận thấy ngôi sao sáu cánh là tốt nhất để vừa nằm gọn trong viên nang và tồn tại lâu trong dạ dày. Thành viên mới của nhóm cũng đưa ra những cân nhăc về độ cứng của các cánh và trung tâm của ngôi sao, độ mạnh của mảnh đàn hồi (elastomer) ở vị trí tương tác với mô, và kích thước lúc bung ra của thiết bị. Cuộc tranh luận dần chuyển sang bàn về các vật liệu giúp thiết bị tồn tại lâu hơn.

Phòng thí nghiệm “hội tụ” những người có lí lịch khoa học khác nhau, giúp nhóm có hiểu biết mới và cách suy nghĩ mới về cùng một vấn đề. Các nhóm tại phòng thí nghiệm của Langer bao gồm các kỹ sư hóa học, cơ khí và điện tử; nhà sinh học phân tử; bác sĩ lâm sàng; bác sĩ thú y; nhà khoa học vật liệu; nhà vật lý; nhà hóa dược. Danh tiếng của ông đã khiến phòng thí nghiệm thu hút 119 nhà nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới, cùng với 30-40 sinh viên đại học thực tập mỗi học kỳ, trong khi hằng năm nhận 4,000-5,000 đơn đăng ký cho 10-20 vị trí nghiên cứu hậu tiến sĩ cho các vị trí cần kỹ năng chuyên môn cho các dự án cụ thể.

Điều kiện bắt buộc cho các ứng viên là phải có kết quả học tập xuất sắc và động lực cao. Đội ngũ lãnh đạo gồm Langer, Traverso và kỹ sư y sinh Ana Jaklenec (MIT) tìm kiếm những người “tốt bụng, hòa đồng và giao tiếp tốt”, bởi đó là những phẩm chất quan trọng của các nhà nghiên cứu phải liên tục giải thích về lĩnh vực của họ cho đồng nghiệp và tìm cách hợp tác thực hiện hiệu quả các thí nghiệm chung. Hockfield, nhà vô địch trong việc hội tụ nhân sự trong tám năm lãnh đạo MIT, nói rằng sự khác biệt về ngôn ngữ kỹ thuật, phương thức làm việc, giá trị quan và thậm chí cách xác định vấn đề đã tạo ra một trong những thách thức ghê gớm cho các phòng thí nghiệm đa ngành.

Jaklenec cho tôi xem một tấm bảng trắng viết đầy các phương trình từ cuộc họp của hai nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ – một nhà sinh học và một kỹ sư y sinh – họ đang cộng tác trong dự án vaccine bại liệt một liều tiêm tồn lại lâu trong cơ thể và phóng thích dần theo từng đợt. Nhà sinh học đã tìm ra cơ chế của thoái hóa của dòng virus dùng trong vaccine, trong khi kỹ sư y sinh nghiên cứu về ổn định nhiệt. Dữ liệu của cả hai không tương hợp với nhau, hóa ra vì họ đã chạy thử nghiệm ở các nồng độ vaccine khác nhau: kết quả của kỹ sư y sinh được dùng trong lâm sàng, còn của nhà sinh học dựa vào các phương pháp phân tích trong lĩnh vực của cô ấy. Họ đã phải sắp xếp các thí nghiệm để đối chiếu kết quả. Những vấn đề như vậy không phải là hiếm. Traverso nói “thách thức là làm sao để mọi người có tiếng nói chung và hiểu được rằng, đối với một số thứ, không ai là chuyên gia duy nhất”.

Ngay cả khi không có vai trò nào phù hợp rõ ràng với họ, Langer đưa ra những ví dụ về “siêu sao” với lý lịch khoa học bất thường. Traverso nhận bằng tiến sĩ về sinh học phân tử dưới sự hướng dẫn của nhà sinh học ung thư danh tiếng Bert Vogelstein của đại học Johns Hopkins, về xét nghiệm các phân tử mới lạ để phát hiện ung thư đại tràng. Thời điểm liên hệ với Langer, ông đã hoàn thành chương trình nội trú nội khoa tại bệnh viện Brigham & Women’s, Boston và đang cố gắng tìm hiểu xem nên làm gì với học bổng ngành tiêu hóa mới nhận được từ Bệnh viện Đa khoa Massachusetts. Ông nói với Langer rằng mình hứng thú với việc phát triển hệ thống phân phối thuốc trong đường tiêu hóa nhưng lại không phải là kỹ sư. Dù vậy, Langer vẫn thuê ông ấy.

Và Langer đã đặt cược thành công. Traverso đã mô tả khái niệm về các cách tiếp cận khác nhau để phân phối thuốc thông qua các thiết bị trong đường tiêu hóa. Quỹ Gates đã nhìn thấy công trình này có thể giải quyết được các vấn đề mà nó muốn giải quyết tại các nước nghèo và đã cung cấp ngân sách nghiên cứu đáng kể. Các khoản tài trợ cũng đến từ Novo Nordisk để phát triển kim siêu nhỏ để tiêm từ bên trong cơ thể, từ phòng thí nghiệm Charles Stark Draper cho hệ thống viên nang mới, và từ Hoffmann-La Roche cho cách thức phân phối một nhóm thuốc mới.

 

Luân chuyển liên tục

 

Như tất cả các phòng thí nghiệm học thuật khác, Langer luôn tiếp nhận rồi chia tay nhân sự của mình. Nghiên cứu sinh tiến sĩ thường ở lại trong 4-5 năm, hậu tiến sĩ trong 2-3 năm, và sinh viên đại học tham gia 1-4 học kỳ. Người mới luôn được đào tạo và mọi người có thể rời đi khi năng suất làm việc đạt đỉnh cao. Langer và đồng nghiệp cho rằng điều này đem lại nhiều điểm tích cực hơn hẳn tiêu cực. Các vấn đề được nhìn nhận dưới những con mắt mới lạ, nên phòng thí nghiệm được “kích thích liên tục”. Sự chuyển đổi nhân sự khá dễ đoán dựa vào thời gian của dự án, thậm chí các khoản tài trợ khổng lồ giúp cho quy mô của phòng thí nghiệm dần mở rộng. Thời hạn của hợp đồng lao động kèm theo thời hạn của dự án (thường 3-5 năm, với các lần gia hạn tùy thuộc sự đáp ứng kết quả) tạo ra áp lực để đạt được mục tiêu.

 

Dẹp bỏ cấp quản lý vi mô

 

Dưới sự lãnh đạo của ông, mọi người đều tham gia đưa ra ý tưởng cho các dự án và lựa chọn dự án nào để theo đuổi. “Đó là một nỗ lực tập thể, trao quyền cho mọi người, tất cả đều cảm thấy vai trò của họ quan trọng và có thể đề xuất mọi thứ”. Điều này trái ngược hẳn với hầu hết các phòng thí nghiệm khác, nơi lãnh đạo lựa chọn dự án.

Langer cho mọi người biết các lựa chọn và để họ quyết định nên làm gì. Quyền lực được phân phối trên cơ sở tích lũy ý tưởng và sáng kiến của từng người và nguồn tài trợ và họ thu hút được. Langer cung cấp cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu sinh sau đại học, rất nhiều hướng dẫn ban đầu để đảm bảo rằng họ khởi động thuận lợi và các cấu trúc dự án đạt tối ưu. Ví dụ, khi bắt đầu dự án phát triển thiết bị phân phối thuốc lưu lại trong dạ dày thời gian dài, ông và Traverso quyết định phải tìm hiểu về hai khả năng: cho nó trôi nổi hay bám vào thành dạ dày. Sau khi nghiên cứu tính khả thi, họ chọn theo đuổi phương án trôi nổi trong dạ dày rồi Langer nhường lại phần việc tiếp theo cho cấp dưới. Nhưng ông không nói cho mọi người biết cần phải làm gì, bởi “đánh giá của bài kiểm tra dựa vào đáp án đúng, còn đánh giá trong cuộc sống dựa vào việc bạn có biết đặt câu hỏi có tốt hay không”. Ông không muốn tạo dựng một phòng thí nghiệm mà mọi người làm đúng theo những gì được phân công. Phòng thí nghiệm của ông phải là nơi mọi người giải quyết các vấn đề của chính họ và đó là lý do tại sao họ trở thành những giáo sư và nhà khoa học vĩ đại trong mắt giới doanh nhân.

Nhưng đồng thời, Langer đảm bảo “quyền tự chủ có hướng dẫn” – các nhà nghiên cứu có thể tin tưởng mình và các cộng sự trong mạng lưới nếu họ gặp rắc rối. Năng lực phản ứng của ông đã trở thành huyền thoại. Ông luôn mang iPad theo bên mình để trả lời email trong vài phút. Langer cũng nỗ lực hết mình để giúp những người rời phòng thí nghiệm của mình có được công việc tốt, và vẫn giữ liên lạc với hàng trăm cựu sinh viên, hỗ trợ họ khi cần. Trong cuộc gặp chia tay với James Dahlman được đề cập ở đầu bài viết, ông đã đề nghị được xem các đơn xin tài trợ của Dahlman. Ông kết nối với mạng lưới của mình. Ông đề cập đến nhiều nhà đầu tư mạo hiểm tài trợ cho các công ty khởi nghiệp của mình, như Terry McGuire của Polaris; Noubar Afeyan, của Flagship; và Mark Levin, của Third Rock – với tư cách bạn bè đúng nghĩa.

Đầu tư cho mạng lưới quen biết đã thu lợi dưới hình thức hợp tác nghiên cứu hiệu quả, nhận được giới thiệu các sinh viên xuất sắc tham gia phòng thí nghiệm và nhân lực cho các công ty khởi nghiệp. Langer không chỉ mở đường cho các nhân viên tạo ra các công ty khởi nghiệp mà còn khai thác mạng lưới đó khi cần. Amy Schulman, giám đốc hoặc chủ tịch điều hành của ba công ty khởi nguồn từ phòng thí nghiệm của Langer, cho biết: “mọi người thường liên hệ với Bob khi họ nghĩ đến sự thay đổi công việc, vì ông vô cùng kín đáo và biết rất nhiều cơ hội mới. Đó là cách có qua có lại với nhau”.

 

Mô hình có thể được nhân lên?

 

Langer là cá nhân xuất sắc! Ông là phần không thể thiếu trong mô hình “từ nghiên cứu đến sản phẩm thương mại”. Langer là độc nhất, nhưng mô hình của ông thì có thể sao chép nhân lên, vậy khi đó điều gì sẽ xảy ra khi bồi dưỡng các chuyên gia sâu trong một số lĩnh vực để khách hàng tìm với các vấn đề cấp bách của mình? Điều gì sẽ xảy ra khi họ thu hút các siêu sao khoa học bằng các cơ hội giải quyết các vấn đề thay đổi thế giới?

Có lẽ các công ty nên thiết lập hoạt động nghiên cứu như một trạm dừng chân vài năm cho những người giỏi nhất đến để cố gắng làm ra điều gì đó táo bạo. Cách tiếp cận như vậy không chỉ giúp giải quyết các dự án tham vọng hơn mà còn loại bỏ các dự án tầm thường hoặc chậm chạp. Dòng chảy nhân sự sẽ tự nhiên loại bỏ các ý tưởng không còn hợp đối với những cái nhìn tươi mới. □

 

Cao Hồng Chiến dịch

Số ra tháng 3-4/2017 (trang 134–143) của Harvard Business Review

Tác giả

(Visited 11 times, 1 visits today)