Giới khoa học tiếp tục góp ý cho Nafosted
Sau khi tổ chức tọa đàm về hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (Nafosted) hồi đầu tháng 3, Tia Sáng tiếp tục nhận được các ý kiến tranh luận xung quanh vấn đề nên xây dựng hội đồng khoa học như thế nào và tiến hành đánh giá, nghiệm thu công trình ra sao cho thực chất. Tia Sáng xin trích đăng một vài ý kiến trong số đó.
Các ý tưởng trong một đề án gửi Nafosted không nảy ra qua đêm mà là kết quả của cả quá trình nghiên cứu trước đó, và việc thực hiện các ý tưởng này cũng không thể giới hạn trong hai năm của đề tài. Theo hiểu biết của tôi, thì trong ngành toán, tỷ lệ những công trình được nghiệm thu vừa rồi thực sự được thực hiện trong thời gian 2 năm qua là không nhiều. Những công trình do Quỹ tài trợ sẽ cần thêm một vài năm nữa mới được công bố hết. Như vậy, mâu thuẫn giữa nghiên cứu và quản lý khoa học có lẽ nằm ở ĐỘ TRỄ của kết quả. Nếu như trồng lúa cần 4 tháng để thu hoạch thì ít có nhà toán học nào khẳng định được, nếu đưa tôi tiền thì tôi sẽ chứng minh được định lý này trong vòng 4 tháng.
Tuy nhiên, theo thực tế Việt Nam thì trong thanh toán tài chính luôn đòi hỏi kết quả. Đòi hỏi này cùng sự cứng nhắc trong việc nghiệm thu dẫn đến hậu quả là các đề tài phải chọn mục tiêu thấp, nhằm có thể đáp ứng tiêu chí về số lượng, nhưng sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng. Các đề tài sẽ có khuynh hướng “băm nhỏ” công trình, làm khoa học theo kiểu “ăn đong”. Sau đợt nghiệm thu vừa rồi, có chủ nhiệm đề tài nói với tôi, đợt nghiệm thu vừa rồi “dại”, khai nhiều công trình quá, khai cả những công trình đã được nhận đăng, đáng lẽ để lại vài công trình cho đợt tới.
Để giải quyết những bất cập này, chúng ta phải chấp nhận hiện tượng gối đầu trong nghiệm thu đề tài. Chẳng hạn đưa ra một quy tắc nhất quán, là những công trình đăng trong thời gian từ năm X tới năm Y sẽ được tính để nghiệm thu cho đề tài thực hiện từ năm S tới năm T. Có thể nói một cách không dấu diếm rằng đây là cách để “lách” quy tắc tài chính cứng nhắc. Vì đơn giản chẳng ở nước tiên tiến nào mà tôi biết có chuyện nghiệm thu đề tài khoa học cơ bản. Họ chỉ không tiếp tục tài trợ những đề tài không hoàn thành tốt trong quá khứ.
Để đảm bảo chất lượng tối thiểu của các đề tài, có thể đặt ra một tiêu chuẩn cứng, chẳng hạn hai bài ISI của mỗi đề tài trong hai năm. Nhưng cần tạo điều kiện, để các đề tài đáp ứng được tiêu chuẩn này có thể theo đuổi được những mục tiêu cao hơn ISI. Ngoài ra khi đánh giá chất lượng nghiên cứu của đề tài cũng cần tính đến các công bố trong nước. Nếu chỉ động viên mọi người gửi bài tới các tạp chí ISI trong khi nước ta chưa có một tạp chí nào nằm trong danh sách này thì vô hình trung tiền của Nafosted sẽ làm cho các tạp chí trong nước đã yếu còn yếu hơn. Tư duy cấp kinh phí đề tài theo số công trình ISI theo tôi cũng hết sức sai lầm. Nafosted không “mua” các công trình đó. Nafosted hỗ trợ nghiên cứu cơ bản. Và ở khắp nơi trên thế giới người ta cũng chỉ hỗ trợ nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản không dùng để bán.
Mặt khác, việc đặt ra tiêu chuẩn quá cao sẽ biến Nafosted thành sân chơi của một số ít cá nhân xuất sắc. Chúng ta cần những tiêu chuẩn vừa phải để khuyến khích được sự tham gia nghiên cứu khoa học của cả một cộng đồng các nhà nghiên cứu.
Cứng nhắc nhưng cần thiết
Nafosted đã có yêu cầu cứng rất cơ bản là mỗi chủ nhiệm đề tài phải có công bố ISI trong 5 năm gần nhất. Với các thành viên hội đồng, chúng ta đặt ra tiêu chuẩn cao hơn một chút – như phải có bài SCI, là tác giả chính trong 5 năm gần nhất – thì cũng là bình thường, giúp tăng sự tin cậy của cả cộng đồng khoa học. Chính cái tiêu chuẩn xem như cứng nhắc nói trên đối với thành viên các HĐ khoa học của Nafosted, tuy có thể chưa tạo cơ hội cho một số cá nhân thực sự có năng lực được tham gia, đã giúp làm nên một bước tiến quyết định cho nghiên cứu cơ bản ở Việt Nam mấy năm qua. Phạm Đức Chính |
Qua đợt nghiệm thu vừa rồi chúng ta thấy vai trò rất quan trọng của các hội đồng khoa học ngành. Ở điểm này, tôi không đồng ý với ý kiến cho rằng nên chọn thành viên hội đồng chỉ gồm toàn những người có nhiều công bố “đẳng cấp ISI” trong thời gian gần đây. Việc hoàn toàn dựa dẫm vào ISI để đánh giá một nhà khoa học là hết sức nguy hiểm, nhất là khi đó lại là thành viên một hội đồng quan trọng. Chúng ta nên dừng lại ở việc coi ISI như là một trong nhiều tiêu chí đánh giá chất lượng đề tài.
“Tầm” của một thành viên hội đồng không phải chỉ ở số công bố ISI mà là ở khả năng đánh giá ý nghĩa một công trình trong lĩnh vực chuyên môn gần với mình. Để chọn lọc được các nhà khoa học có “tầm” như vậy vào các hội đồng, thay vì dựa vào các tiêu chí cố định, chúng ta nên có sự bình bầu mang tính dân chủ. Mỗi cộng đồng khoa học, như Toán, Lý, hay Hoá, v.v, đều có khả năng đánh giá ai là người xứng đáng tham gia hội đồng.
Ngoài ra, chúng ta cần ghi nhận ý kiến của GS Trần Xuân Hoài và GS Vũ Cao Đàm về việc bỏ các hội đồng khoa học (với cách làm việc hiện nay). Đề xuất này có lẽ là chưa khả thi, nhưng cũng là một tiếng nói cảnh báo. Nếu không có chế tài kiểm soát, các hội đồng có thể có khuynh hướng “độc tài”. Khi có quá nhiều quyền lực thì sẽ dễ xảy ra lạm dụng quyền lực. Một hội đồng “tiên tiến” khi thành lập cũng có thể trở thành “bảo thủ” sau một vài năm hoạt động. Ban giám đốc Quỹ phải có trách nhiệm giám sát công việc của các hội đồng cũng như cân đối quyền lợi của các nhà khoa học trong các ngành khác nhau.
Phùng Hồ Hải
Viện Toán học
—
“Tâm” khó đoán nhưng “tầm” dễ biết
Cả thế giới đều coi đánh giá các công bố khoa học của Thompson ISI là chuẩn mực và vẫn là cơ sở tin cậy để xếp hạng các trường đại học trên thế giới. Trong ISI có hai danh sách SCI và SCI-E (SCI mở rộng), ngay cái tên gọi cũng đã thể hiện đẳng cấp của nó. Đương nhiên, việc so sánh SCI/SCI-E hay IF của các tạp chí cũng chỉ có thể trong từng lĩnh vực chuyên ngành hẹp mà thôi. Không thể vì một vài tạp chí toán nào đó bị Thompson “xếp nhầm” (?) mà cảnh giới cả cộng đồng khoa học phải hạ tín nhiệm của Thompson.
Tôi cho GS Trần Xuân Hoài đã có cái nhìn rất “nhân văn” khi cho rằng: chúng ta hãy nên trân trọng tất cả những nỗ lực để có công bố ISI, đừng quá phân biệt “ít nhiều, to nhỏ” làm sao số lượng công bố ISI tăng lên xứng với “đồng tiền – bát gạo” Nhà nước đầu tư cho Nafosted là tốt rồi. Đương nhiên, bước đầu một vài trường hợp được Nafosted tài trợ nhưng không có sản phẩm là không tránh khỏi, song không vì thế mà giảm niềm tin của cộng đồng khoa học.
Về “sứ mạng” các thành viên trong các hội đồng, tôi nghĩ cũng được Nafosted quy định khá rõ ràng. Tôi không nghĩ một hội đồng hay các thành viên nào đó lại có thể trở thành “các nhóm độc tài” hay trở nên “bảo thủ”. Việc thẩm định và tư vấn cho Quỹ xét chọn tài trợ đã có các tiêu chí khá minh bạch và rõ ràng, ngoài 2-3 người được phân công thẩm định, hồ sơ được thông qua hội đồng đánh giá chung cuộc và quyết định bằng lá phiếu của từng thành viên hội đồng. Thực tế, một vài thành viên hội đồng, có thể vì thiếu thời gian mà đưa ra kết quả thẩm định hời hợt hoặc thiếu chuẩn xác, thì khi báo cáo trước hội đồng đã bị phản biện, phải thay đổi kết quả thẩm định của mình.
Thời buổi này cái “tâm” thì khó biết, nhưng cái tầm thì quá dễ để phân biệt, trong số công bố nếu có nhiều công bố trên tạp chí có đẳng cấp cao hơn thì tầm lớn hơn là đương nhiên.
Về nghiệm thu đề tài, quy trình hiện nay đã khá chặt chẽ. Tuy nhiên không nên máy móc theo kiểu đăng ký bao nhiêu bài ISI thì phải có đủ bấy nhiêu bài mới được nghiệm thu. Như ở hội đồng khoa học sự sống, một số đề tài chỉ có một công bố vẫn được chấp nhận, ngược lại một số có khá nhiều công bố, nhưng chỉ vì “quên” ghi nhận tài trợ của Nafosted nên vẫn không được chấp nhận.
Nguyễn Ngọc Châu
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
—
Không nên tuyệt đối đồng nhất học hàm, học vị với trình độ
Đối với chuyên gia đánh giá, có thể thấy tiêu chí lựa chọn của Quỹ khá linh động, mặc dù đặt ra yêu cầu về học hàm, học vị (học vị tiến sĩ hoặc chức danh khoa học phó giáo sư trở lên), nhưng vẫn chấp nhận ngoại lệ và những trường hợp đặc biệt đó sẽ “do Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ xem xét, quyết định”. Ngoại lệ này không được áp dụng đối với chủ nhiệm đề tài (yêu cầu phải có học vị tiến sĩ hoặc chức danh khoa học phó giáo sư trở lên). Thực tế, một số nhà nghiên cứu có nhiều công trình đã được công nhận trong và ngoài nước, hoàn toàn đủ trình độ tổ chức các đề tài theo tiểu chí của Quỹ nhưng lại không có học hàm học vị, đơn cử như các nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, Cao Tự Thanh hay Nguyễn Đình Đầu v.v… Nên chăng, bằng cách nào đó, Quỹ cũng dành một số ngoại lệ cho chủ nhiệm đề tài, như đối với trường hợp chuyên gia đánh giá.
Quy định mức lương căn cứ trên học hàm học vị như hiện nay cũng là bất cập. Sự thật là, ở một số đề tài nhất định, lực lượng nghiên cứu sinh lại là người làm chủ yếu. Cần có những quy định đảm bảo kinh phí được phân bổ theo thực tế công việc cũng như hiệu quả công việc đạt được.
Nafosted nên có kế hoạch tài trợ cho việc xuất bản các chuyên luận thuộc đề tài đã/đang đăng kí thực hiện. Bởi lẽ, với khoa học xã hội và nhân văn nói riêng, chuyên luận có giá trị hơn rất nhiều so với một bài tạp chí, kể cả tạp chí quốc tế.
Trần Trọng Dương |
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, một công trình xử lí tư liệu gốc có thể đóng góp cứ liệu cho nhiều công trình nghiên cứu khác, bởi vậy xử lý tư liệu gốc rất nên được đưa vào hạng mục đầu tư của Quỹ. Chẳng hạn, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh đã tự đầu tư dịch và in cuốn phần về thời Thành Thái của bộ sử lớn nhất của triều Nguyễn là Đại Nam thực lục, là cơ sở cho rất nhiều nghiên cứu lịch sử về sau; hoặc như công trình nghiên cứu về địa bạ của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu v.v…
Ngoài ra, không nhất thiết phải có dòng chữ cảm ơn Quỹ đối với các công trình không phải do Quỹ đầu tư xuất bản. Trên thực tế, một số tạp chí chuyên ngành trong nước từ chối đăng dòng chữ này với lý do Quỹ hỗ trợ trong quá trình nghiên cứu còn họ mới là người xuất bản, và trả nhuận bút. Không ít tạp chí nước ngoài cũng từ chối đăng dòng chữ này. Bởi vậy, chỉ nên quy định về nội dung công trình công bố phù hợp với đề tài là đủ.
Nguyễn Tô Lan
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
—
Cần làm rõ hơn tiêu chí bài báo quốc tế
NAFOSTED hiện nay đặt ra yêu cầu có ít nhất một công trình công bố quốc tế hoặc một cuốn sách chuyên khảo đối với các đề tài nghiên cứu KHXH.
Quy định này rất cần thiết để nâng nền khoa học Việt Nam ngang tầm quốc tế, tuy nhiên, hiện NAFOSTED chưa có hướng dẫn chi tiết tiêu chí công trình công bố quốc tế. Nếu hiểu quốc tế là công bố ngoài Việt Nam thì e là chưa đủ vì nếu như vậy thì một công trình công bố tại Somalia hay Lào… cũng được coi là đáp ứng yêu cầu của NAFOSTED chăng?
Theo tôi, chỉ nên giới hạn lại các công trình công bố tại các quốc gia mà Chính phủ gửi cán bộ của mình đi đào tạo theo các đề án 322, 911, 165 mà thôi. Và trong số các công trình công bố quốc tế tại quốc gia này thì cũng cần phải phân biệt rõ tạp chí nào có IF và tạp chí nào không.
Đối với KHXH, việc tiếp tục coi sách chuyên khảo công bố tại Việt Nam là một sản phẩm thay thế công trình công bố quốc tế là cần thiết. Khác với khoa học tự nhiên có tính chung toàn cầu (ví dụ: định lý toán học áp dụng và biểu đạt bằng các ký tự giống nhau trên khắp toàn cầu), khoa học xã hội có những quan tâm đặc thù theo từng quốc gia; một vấn đề KHXH quan trọng ở quốc gia này có thể hoàn toàn không được quan tâm ở quốc gia khác. Vì vậy, một công trình KHXH có thể rất có ý nghĩa với Việt Nam nhưng lại không nhận được sự quan tâm của các tạp chí nước ngoài.
Tuy nhiên, sách chuyên khảo trong nước chất lượng cũng thượng vàng hạ cám. Việc đánh giá là “vàng” hay là “cám” đối với công trình trong nước khá dễ; còn đối với công trình công bố quốc tế bằng các ngôn ngữ không thông dụng thì không phải lúc nào cũng có chuyên gia cùng lĩnh vực và thông thạo ngôn ngữ đó để đánh giá.
Võ Trí Hảo
Khoa Luật kinh tế – ĐH Kinh tế TP.HCM
—
Đọc thêm:
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=110&CategoryID=36&News=4992