75 năm Lucerne Festival

Âm nhạc vang lên theo cách những nhà soạn nhạc vẫn mường tượng. Các nghệ sỹ chơi nhạc với sự say mê và tận tụy. Khán giả thảnh thơi bước vào thế giới của âm thanh, bỏ lại đằng sau cuộc sống thường nhật xô bồ. Lucerne Festival ở Thụy Sỹ đã biến tất cả những điều đó thành hiện thực từ 75 năm nay.

Biểu diễn tại Lucerne Festival là những nghệ sỹ hàng đầu thế giới – những dàn nhạc danh tiếng, những nhạc trưởng huyền thoại, những nghệ sỹ độc tấu bậc thầy. Trong nhà hát do Jean Nouvel thiết kế, nổi tiếng bởi đặc tính phi thường về âm học cũng như nét trang nhã trong kiến trúc, họ gặp gỡ những khán giả đa ngôn ngữ không kém: hơn 120.000 người từ mọi nẻo đường đổ về Lucerne để dự ba festival – Lucerne Festival at Easter, Lucerne Festival in Summer và Lucerne Festival at the Piano.

Khởi nguồn

Lucerne ngày 25-8-1938, trong khu vườn phía trước biệt thự của Richard Wagner ở quận Tribschen, nhạc trưởng huyền thoại người Ý Arturo Toscanini đang chỉ huy dàn nhạc tinh hoa được tập hợp đặc biệt cho sự kiện ngày hôm đó. Ngồi ở bè dây số 1 là nhóm tứ tấu Busch Quartet, trong khi thành phần chính của dàn nhạc là các nghệ sỹ từ đẳng cấp Orchestre de la Suisse Romande trở lên. Cơ hội được trình diễn và nghe các kiệt tác âm nhạc với phông nền là cảnh hồ Lucerne lãng mạn dường như đem lại cho nhiều người tia hy vọng trong một thời kỳ đen tối của lịch sử. Chế độ toàn trị của Đảng quốc xã đã được thiết lập, đầu tiên ở Đức và giờ đây là Áo; những nghệ sỹ tầm cỡ như Toscanini và các đồng nghiệp của ông là Bruno Walter và Fritz Busch đã từ chối trình diễn ở Bayreuth Festival1 hay Salzburg Festival2, bởi đạo đức nghề nghiệp không cho phép họ làm như vậy. Khác với Đức và Áo, Thụy Sỹ độc lập và tự do, và Lucerne, một trong những thành phố cổ đẹp nhất thế giới, dường như được sinh ra cho festival âm nhạc. Vì vậy, chẳng phải tình cờ khi ngày 25/8 năm đó chứng kiến sự ra đời của một ngày hội truyền thống mà ngày nay được gọi là Lucerne Festival.

Có nhiều thứ đã thay đổi trong 75 năm qua. Mùa diễn đầu tiên vào năm 1938 chỉ có 10 buổi hòa nhạc. Kể từ đó, Lucerne Festival đã có những bước phát triển nhảy vọt và ngày càng trở nên đa sắc. Cuộc trình diễn hằng năm của những dàn nhạc hàng đầu thế giới bắt đầu vào nửa cuối những năm 1950. Năm 1970, lần đầu tiên một chủ đề đặc biệt được đưa ra cho toàn Festival, và ý tưởng đó vẫn được duy trì đến nay. Cùng năm này, âm nhạc của một nhà soạn nhạc đương đại được chọn làm tâm điểm của Festival. Các buổi độc tấu ra mắt (The Début Recitals), ban đầu được đặt tên là “Những nghệ sỹ độc tấu trẻ”, được khởi động từ mùa hè 1973. Năm 1988, Festival at Easter ra đời, và từ năm 1998 là Lucerne Festival at the Piano diễn ra vào cuối mùa thu.

Một nhà hát mới tuyệt vời, do kiến trúc sư nổi tiếng người Pháp Jean Nouvel thiết kế, được chuyển nhượng làm địa điểm trình diễn chính của Festival kể từ năm 1998.

Tầm nhìn của Toscanini về sứ mệnh của Festival giờ đây lại được tiếp thêm sinh khí với sự ra đời Lucerne Festival Orchestra do nhạc trưởng người Ý Claudio Abbado chỉ huy, kể từ mùa hè năm 2003. Và từ năm 2004, Lucerne Festival Academy do nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Pháp Pierre Boulez đứng đầu, đã trở thành học viện âm nhạc riêng của Festival, nơi những nghệ sỹ trẻ tài năng được học nghệ thuật trình diễn âm nhạc hiện đại.

Lucerne Festival Academy

“Tất nhiên, chúng ta đã có đủ các nhạc viện và học viện âm nhạc,” Pierre Boulez nói, “nhưng chúng thường khắt khe với âm nhạc đương đại.” Đó là lý do vì sao ông lại thành lập Lucerne Festival Academy vào năm 2004, một kiểu trường siêu hạng nơi 130 nghệ sỹ trẻ vô cùng tài năng từ khắp nơi trên thế giới quy tụ để đào sâu nghệ thuật biểu diễn âm nhạc thế kỷ 20 và 21. “Chúng tôi tập trung vào một số tác phẩm và chủ đề đặc biệt trong một thời gian ngắn, khoảng ba tuần làm việc bên nhau,” Boulez giải thích. “Và năm nào cũng có các tác phẩm ra mắt lần đầu của thế giới, vì vậy các học viên có thể học hỏi từ kinh nghiệm thực tế rằng ‘âm nhạc ngày nay’ thực sự nghĩa là gì.”

Là một trong những nhà soạn nhạc được ngợi ca nhiều nhất của thời đại chúng ta, Boulez hiểu rõ ý đồ của một tác phẩm và việc thể hiện nó có khi cách nhau cả một đại dương. Ngược lại, là một nhạc trưởng, ông biết rõ tất cả những khó khăn mà các nhạc công trong dàn nhạc gặp phải khi chơi âm nhạc đương đại. Mối quan tâm hàng đầu tiên của ông là làm sáng tỏ ý nghĩa của âm nhạc, “tại sao một tác phẩm nào đó lại được sáng tác theo cách này mà không phải cách khác. Những tác phẩm xuất sắc đều có thể được biện giải một cách thuyết phục. Chỉ khi sự biện giải đó trở nên sáng tỏ ở một mức độ nhất định thì mới có thể thực hiện được kỹ thuật, bao gồm kỹ thuật nghe và phân tích – dù là đối với nhạc công nào, quan trọng hay kém quan trọng hơn trong một đoạn tác phẩm cụ thể. Tôi gọi đó là văn hóa của sự gắn kết, văn hóa trình diễn tập thể. Khi các học viên tập luyện chuyên tâm trong hai hoặc ba tuần, họ mới tiếp nhận được âm thanh và hiểu rõ hơn thứ âm nhạc này cần được chơi như thế nào.”

Kể từ ngày thành lập, hơn 130 tài năng âm nhạc trẻ đã tụ hội cùng nhau mỗi mùa hè để nghiên cứu các bản tổng phổ đương đại và những kiệt tác âm nhạc hiện đại. Làm việc cùng nhau trong các buổi tập luyện, hội thảo, lên lớp, các thành viên đã nhận được những trang thiết bị cơ bản cho việc trình diễn âm nhạc đương đại. Đội ngũ giảng viên là các nghệ sĩ của dàn nhạc Ensemble InterContemporain, một trong những dàn nhạc nổi tiếng nhất ở lĩnh vực âm nhạc hiện đại do chính Pierre Boulez thành lập vào năm 1976 ở Paris, gồm 31 nghệ sỹ độc tấu chuyên biểu diễn từ âm nhạc thế kỷ 20 đến những tác phẩm được sáng tác thời gian gần đây. Những tác phẩm trong “chương trình học” sau đó đều được trình diễn trước công chúng trong các buổi hòa nhạc và độc tấu. Chuỗi chương trình Fourm cho phép khán giả nhìn thấy cảnh hậu trường và thấy những học viên và giảng viên làm việc như thế nào tại các buổi tập, các giờ học nâng cao, hoặc các hội thảo. Nhưng không chỉ những nghệ sỹ biểu diễn được lợi từ các khóa đào tạo mang nhiều tính thực hành này của học viện: học viện còn tạo đà cho các nhạc trưởng và các nhà soạn nhạc nảy nở tài năng. Hằng năm, Lucerne Festival Academy đều có khóa nâng cao về chỉ huy do Pierre Boulez trực tiếp đứng lớp. Bên cạnh đó, còn có đặt hàng cho các nhà soạn nhạc trẻ.

Lucerne Festival Orchestra

Claudio Abbado có lần nói rằng, với việc thành lập của Lucerne Festival Orchestra, giấc mơ của ông đã thành hiện thực. Đó không phải là lời nói cho vui của một nghệ sỹ đã đạt tới các đỉnh cao trong sự nghiệp của mình: ông là người lãnh đạo La Scala, nhà hát opera nổi tiếng ở Milan, quê ông; giám đốc Nhà hát Opera quốc gia Vienna; ông đã kế tục vị trí lãnh đạo Berlin Philharmonic của Herbert von Karajan và sáng lập Wien Modern Festival; và ông chính là người dẫn dắt Salzburg Easter Festival. Thêm vào đó là sự tận tình của ông với những tài năng trẻ. Không dưới năm dàn nhạc danh tiếng hàm ơn ông: European Union Youth Orchestra, Chamber Orchestra of Europe, Gustav Mahler Youth Orchestra, Mahler Chamber Orchestra, và Mozart Orchestra. Nhưng Lucerne Festival Orchestra mới là tổng thể những điều quan trọng nhất đối với ông. “Sự khác biệt là được ở giữa vòng tay của những người bạn tốt nhất,” ông giải thích. “Mọi người đến đây để có cảm hứng sáng tạo âm nhạc, để vui vẻ, để trình diễn với sự tận tâm và xúc cảm mạnh mẽ. Mỗi người đều sẵn sàng làm những điều điên rồ nhất mà tôi bảo họ làm vì âm nhạc – bay hay đi qua lửa.”

10 năm đã qua, kể từ khi Lucerne Festival Orchestra có buổi trình diễn đầu tiên vào mùa hè năm 2003 và ngay lập tức gây ấn tượng mạnh. Bằng việc lập ra dàn nhạc tinh hoa này, Claudio Abbado và Michael Haefliger làm người ta nhớ đến khoảnh khắc Festival ra đời vào năm 1938, khi Arturo Toscanini tập hợp các nghệ sỹ bậc thầy của thời đó để tạo nên một dàn nhạc độc nhất vô nhị trong “Concert de Gala” huyền thoại. Rất nhiều buổi trình diễn của Lucerne Festival Orchestra trong thập kỷ vừa qua được phát thanh, truyền hình trực tiếp và sau đó phát hành thành DVD, trong số đó bản thu âm trực tiếp Giao hưởng số 9 của Mahler đã giành giải thưởng Diapason d’Or3, giải thưởng của Tạp chí Âm nhạc BBC, và Giải thưởng Âm nhạc Cổ điển Quốc tế4 2012. Dàn nhạc còn thực hiện những chuyến lưu diễn tới nhiều thành phố ở châu Âu, tới Mỹ và châu Á.

Dấu ấn 2013

Lucerne Festival at Easter từ ngày 16 đến 24-3-2013

Claudio Abbado cùng Orchestra Mozart Bologna của Ý và nữ nghệ sỹ piano Martha Argerich đã mở màn Lucerne Festival at Easter 2013.

Gustavo Dudamel và Los Angeles Philharmonic tham gia Festival với The Gospel According to the Other Mary của nhà soạn nhạc Mỹ John Adams và do Peter Sellars đạo diễn.

Trong khi đó, nhạc trưởng người Anh John Eliot Gardiner chỉ huy dàn nhạc English Baroque Soloists và dàn hợp xướng Monteverdi Choir biểu diễn St. John Passion của J.S. Bach.

Nhạc trưởng người Latvia Mariss Jansons chỉ huy Bavarian Radio Symphony Chorus and Orchestra của Đức trình diễn War Requiem của Benjamin Britten, hướng tới lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà soạn nhạc.

Lucerne Festival in Summer từ ngày 16-8 đến 15-9-2013

Mở màn Summer Festival 2013, Claudio Abbado và Lucerne Festival Orchestra trình diễn Giao hưởng số 3, Eroica, của Beethoven và Prometeo, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của nhà soạn nhạc ngưới Ý Luigi Nono.

Festival trình diễn tác phẩm của các nhà soạn nhạc từ Carlo Gesualdo đến Ludwig van Beethoven, từ Hector Berlioz đến Gustav Mahler, từ Arnold Schoenberg đến Dmitri Shostakovich… Bên cạnh đó, nhạc trưởng người Anh Jonathan Nott cùng dàn nhạc Bamberg Symphony của Đức và những nghệ sỹ ngôi sao trình diễn toàn bộ “Ring des Nibelungen” của Richard Wagner nhân kỷ niệm 200 năm sinh của ông.

Nhà soạn nhạc Israel Chaya Czernowin trở thành tâm điểm trong chương trình “Composer in residence”, trong khi tứ tấu trẻ Jack Quartet đảm nhiệm vai trò “Quartet-in-residence”.

Ngoài ra, nghệ sỹ piano Mitsuko Uchida và nghệ sỹ bộ gõ Martin Grubinger cũng được mời đến Festival.

Lucerne Festival Orchestra đã trình diễn các tác phẩm mới viết cho dàn nhạc của Benjamin Attahir và Christian Mason. Ngoài ra, nghệ sỹ violin người Đức Carolin Widmann cùng với dàn nhạc đã trình diễn lần đầu ở Thụy Sỹ Violin Concerto mới của nhà soạn nhạc đồng hương Dieter Ammann. Các nhạc trưởng tên tuổi như David Robertson (Mỹ), Pierre Boulez, và Pablo Heras-Casado (Tây Ban Nha) chỉ huy các buổi biểu diễn này.

Lucerne Festival at the Piano từ ngày 16 đến 24-11-2013

Evgeny Kissin trình diễn hai buổi hòa nhạc, trong đó có một buổi mở màn Festival. Cùng với Chamber Orchestra of Europe, anh trình diễn bản Piano Concerto số 1 của Tchaikovsky.

Tiếp theo màn trình diễn đỉnh cao và kín ghế ngồi vào năm 2010, Grigory Sokolov xuất hiện trở lại tại Lucerne vào ngày 17-11.

Nghệ sĩ piano người Mỹ Murray Perahia sẽ tới đây với dàn nhạc Academy of St Martin in the Fields của Anh để biểu diễn các tác phẩm của Mozart và Haydn.

Ngoài ra, còn có một buổi độc tấu của nghệ sĩ piano người Ý Maurizio Pollini.

Những nghệ sỹ piano thuộc thế hệ trẻ như Momo Kodama, Kirill Gerstein, và Fazil Say cũng có mặt tại Festival với ba buổi trình tấu trong chuỗi “Debut series”.

Thanh Nhàn tổng hợp từ http://www.lucernefestival.ch/en/

1 Liên hoan âm nhạc dành riêng cho các vở opera của Wagner, được tổ chức hằng năm ở TP Bayreuth, Đức, kể từ năm 1876.

2 Liên hoan âm nhạc và kịch nghệ được tổ chức vào cuối tháng bảy hằng năm và kéo dài năm tuần kể từ năm 1929 ở thành phố Salzburg, Áo, quê hương của Wolfgang Amadeus Mozart.

3 Giải thưởng của các nhà phê bình từ nguyệt san chuyên về nhạc cổ điển Diapason của Pháp dành cho bản thu âm nhạc cổ điển xuất sắc.

4 The International Classical Music Awards là giải thưởng được trao hằng năm ở Cannes, Pháp, thay thế cho giải thưởng Cannes Classical Awards kể từ năm 2011. Ban giám khảo bao gồm các nhà phê bình âm nhạc từ các tạp chí Andante, Crescendo, Fono Forum, Gramofon, Kultura, Musica, Musik & Theater, Opera, Pizzicato, Rondo Classic, Scherzo, cùng với các đài phát thanh MDR-Figaro (Đức), Orpheus Radio (Nga), Radio 100,7 (Luxembourg), the Internationales Musik And Medienzentrum (Áo), Classic Radio (Phần Lan) và website Resmusica.com (Pháp).

Tác giả

(Visited 1 times, 1 visits today)