Một nhu cầu nghiên cứu văn chương: Đối thoại văn hóa

Các nghiên cứu văn chương giờ đây lại có thể là một cắt nghĩa về chính trị, lịch sử và nhất là văn hóa, khác với trước đây chỉ chú mục hoàn toàn vào ‘nội dung - nghệ thuật’ tác phẩm như giáo án bài giảng phổ thông. Nói cách khác, một trong những nhu cầu nghiên cứu văn học chính là được trình bày một đối thoại văn hóa.

1. Có một thực tế hiện nay xảy ra với nhiều người trẻ nghiên cứu văn chương là dường như việc chọn đề tài đã rơi vào tình thế cạn kiệt. Với những ai sẵn lòng thao thức tìm biết và mong có chút dấu ấn cá nhân trên “hành lộ nan” nghiên cứu, dù ở cấp độ nào, thì họ thường đứng giữa hai lựa chọn không mấy dễ dàng: phải tìm kiếm một đối tượng mới hoặc phải làm mới đối tượng đã biết bằng phương pháp mới. Câu hỏi quen thuộc đến mức ám ảnh “có đóng góp gì mới không?” ở mỗi lựa chọn cũng là thứ áp lực để kích thích tinh thần dấn thân của người nghiên cứu cho dẫu chính họ, bởi tất cả sự khởi đầu chập chững, chưa chắc đi tới nẻo thành công. Trong bối cảnh văn học đương đại, khi mọi kênh thông tin đã dày lên từng giây phút, khi nhu cầu đuổi kịp tốc độ cập nhật tri thức đã bức thiết từng ngày, thì việc thỏa mãn các điều kiện về độ khả thể trọn vẹn của một đường hướng nghiên cứu lại càng khó khăn. Không ít trường hợp rơi vào một quá khứ khoa học xã hội từng duy trì quán tính làm việc hết sức khôi hài như nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương, người cũng có thâm niên trong giảng dạy đại học, đã thâm trầm chỉ ra: “Minh họa các kết luận chính trị bằng các chất liệu, các dữ kiện khoa học hóa, thậm chí đón ý và phụ họa các định kiến của những nhân vật quyền lực nào đó đã kịp trở thành “tác phong khoa học” không quá lạ lẫm ngay ở các đại diện của cả một số ngành vốn được coi là “mũi nhọn”1. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách không quá khiêm tốn, thì khoảng chục năm trở lại đây, nghiên cứu văn chương, ở tính chất hàn lâm nhất, vẫn gắn với nhà trường hoặc các viện nghiên cứu, nơi cho chúng ta nhìn thấy ý thức tái sử dụng hoặc chiết xuất các lí thuyết/phương pháp nghiên cứu đa nguồn trong việc “đọc có thẩm quyền” lịch sử văn học dân tộc, trong quá khứ và hiện tại. Chẳng hạn, sự tái xuất của phân tâm học, hiện tượng học, thông diễn học, hay sự có mặt trở nên thời thượng của hậu hiện đại, hậu cấu trúc, nữ quyền luận, diễn ngôn… đã hút vào đó một lượng không nhỏ những luận văn/tiểu luận/công trình, những hội thảo, những nhà nghiên cứu có tham vọng xác lập tiếng nói đích đáng của mình. Đáng chú ý hơn, cũng từ/trong môi trường học thuật có sự chung đụng của tình trạng đại nghị lí thuyết như thế, chúng ta nhận ra nhu cầu được đối thoại, trước hết là ý tưởng, cách thức triển khai, và sau nữa, rộng hơn, là quan điểm, cái nhìn của mỗi cá nhân/thế hệ về văn chương và các giá trị hữu lí có thể đạt tới của nó. Chính nhờ đây, không khí lành mạnh và sang trọng của khoa học văn chương mới được lan tỏa và cơ hồ trở thành nét hấp dẫn khiến người nghiên cứu bước vào với tâm thế hào hứng thay vì e ngại, mệt mỏi.

Tính chất dân chủ hóa văn hóa khiến người nghiên cứu phải thâu nạp, tích hợp cả các hiện tượng, vấn đề thường bị xem là nhỏ lẻ, manh mún hoặc phi văn chương theo quan niệm truyền thống để xây dựng lí lẽ, diễn giải của mình. 

Thực ra, xét ở phương diện tư tưởng thì lịch sử nghiên cứu – phê bình văn học hiện đại ở ta có lẽ là lịch sử của những đối thoại. Những nghiên cứu ra đời sau bao giờ cũng hướng tới đối thoại với công trình trước đó. Những chủ thể nghiên cứu trong những bối cảnh văn hóa khác nhau có xu hướng đi tìm những đối thoại với bối cảnh không cùng tính cách. Thời gian không quá đỗi bất công khi mà số lượng những công trình mang dáng dấp “của tin còn lại” đều xuất phát ít nhiều từ phẩm chất đối thoại cẩn trọng, tinh anh và nó cũng sẵn sàng thích nghi với sự thanh lọc qua đối thoại. Bởi đã có thực thể văn chương được nảy nở trong các khúc ngoặt lịch sử và văn hóa tuy liền kề nhưng có sự khác biệt sâu xa, từ văn hóa thực dân – phong kiến trước 1945, đến văn hóa xã hội chủ nghĩa, văn hóa đô thị miền Nam, văn hóa thời kì hội nhập quốc tế…, nên sẽ không ngạc nhiên nếu các kết quả văn học sử, phê bình văn học vẫn còn đó độ vênh lệch, khuyết thiếu hoặc nhầm lẫn nhất định. Chưa một ai và cũng chưa lấy gì đảm bảo rằng đã có và chỉ duy nhất một bảng hệ chuẩn mực đại diện cho tất cả những diễn biến sinh động, phức tạp của văn học hiện đại. Nhưng điều dĩ nhiên đúng khiến chúng ta nảy sinh cảm giác tin cậy là, chính trong hoạt động khoa học văn chương, luôn dự sẵn các kết luận, đáp số đưa ra chưa phải là hoàn tất và hẳn sẽ còn được xem xét lại, bổ sung, hoàn thiện dần thêm. Đấy không chỉ là thao tác nằm lòng mà còn như một động lực thúc đẩy sở học trong mỗi đương sự tham gia văn học.

2. Một thực tế khác là xã hội chúng ta hiện nay, cái lồng ấp sự trưởng thành của người trẻ như lâu nay vẫn nghĩ, đang có những không gian văn hóa mới và chúng khá gần gũi, tương thông ít nhiều với thế giới. Sẽ rất mất thời gian để có sự đồng đẳng văn hóa giữa các quốc gia/khu vực nhưng trước hết, các khác biệt sẽ ngày càng lộ rõ và càng đẩy các không gian văn hóa tiến đến đối thoại, tránh “đụng độ” (như luận điểm nổi tiếng của S. Huntington). Nhiều người đã lên tiếng và không hề thờ ơ trước tình trạng “đồng sàng dị mộng” của mỗi thế hệ trong một gia đình, một đơn vị/tổ chức xã hội, kể cả trong giới cầm bút. Định danh “văn chương 8x, 9x”, thoạt tiên tưởng rất mơ hồ, nhưng lại đẩy cao được đặc tính tâm thái thế hệ, một thế hệ đang ngấp nghé khoái cảm công dân toàn cầu với khả năng vươn tới hai-văn hóa, đa-văn hóa. Tình huống “quá độ” từ “đơn” sang “đa” này cũng không phải là ngoại lệ. Robert M. Young, nhà nghiên cứu nổi tiếng Hoa Kỳ, khi nói đến các trải nghiệm về văn hóa của mình, từng than phiền rằng, khi còn bé, ông chỉ hiểu ‘văn hóa’ là những gì mà giới giàu có đang làm – xem kịch, nghe nhạc giao hưởng, triển lãm nghệ thuật. Không ai nói với ông phim ảnh, nhạc jazz, thứ pop thô thiển hay áo xống thời trang cũng là văn hóa. Về sau, ông ý thức rằng, văn hóa không chỉ là những giá trị đã tồn tại mà còn là các lối/kiểu sống. Khái niệm không gian văn hóa (cultural space) của ông được mở rộng tối đa: Nhà cửa, láng giềng, trường học, góc phố, nhà máy, điệu disco, kịch dài tập, quán xá, chợ búa, nhà tù, khu mua sắm, văn phòng, nghề nghiệp, hội thảo hay nhóm nghiên cứu, cơ sở giáo dưỡng tâm thần hoặc tâm lí trị liệu, sòng bài, bể bơi, lớp yoga, phòng tập thể hình, quán bar đồng tính, rạp chiếu bóng,… nghĩa là bất cứ nơi đâu con người tụ hợp và hoạt động trong các cách liên kết với hoạt động thông thường, các giá trị và mối quan hệ xã hội2. Nhìn kĩ, các không gian này cũng đang lắp ghép nên đời sống tinh thần, cấu trúc xã hội Việt Nam. Tính chất dân chủ hóa văn hóa khiến người nghiên cứu phải thâu nạp, tích hợp cả các hiện tượng, vấn đề thường bị xem là nhỏ lẻ, manh mún hoặc phi văn chương theo quan niệm truyền thống để xây dựng lí lẽ, diễn giải của mình.

Tất nhiên, vấn đề trên còn gắn với một diễn biến khác: Khi xu hướng nghiên cứu văn học thuần túy tập trung vào văn bản có dấu hiệu chững lại (mà sự giảm “mốt” của thi pháp học là ví dụ) thì sự trỗi dậy của các cách thức tiếp cận ngoài văn bản là lối mở hấp dẫn. Những nghiên cứu như vậy thường khơi dậy hứng thú tìm kiếm các ngữ cảnh bao quanh văn chương, những tác nhân đã làm văn chương trở nên đa diện. Vì thế, các nghiên cứu văn chương giờ đây, đáng bàn luận nhất, lại có thể là một cắt nghĩa về chính trị, lịch sử và nhất là văn hóa, khác với trước đây chỉ chú mục hoàn toàn vào ‘nội dung – nghệ thuật’ tác phẩm như giáo án bài giảng phổ thông. Nói cách khác, một trong những nhu cầu nghiên cứu văn học chính là được trình bày một đối thoại văn hóa.

3. Nhưng lại vẫn muốn biết, phải thế nào để có đối thoại văn hóa thực sự? Hẳn những ý tưởng dưới đây, mà tôi có nhiều đồng cảm, là một kênh tham khảo cho câu trả lời: Những mặc định bất khả xâm phạm có thể được phơi mở và phi rào cản khám phá; Những thứ có vẻ ghê tởm có thể được nói lên và được nghe; Mọi người đều có thể mưu cầu/theo đuổi sự hiểu biết sâu rộng về sự đa bội và đối nghịch trong ý kiến và tư tưởng; Bằng việc lắng nghe tích cực và nói lên sự thực từ viễn cảnh của chính mình, mọi người có thể trải lòng quan điểm của mình về điều mình đã từng làm được; Ngay ở lúc có sự bất đồng và phản đối, thì tình thương và sự hiểu biết có thể thay thế thù ghét; Mọi người có sự khác biệt lớn lao có thể liên kết với nhau một cách thân thiện và tôn trọng…3 Khi các đối thoại được khởi phát với niềm tin và những nguyên tắc như vậy, thì, xét trong phạm vi phê bình – nghiên cứu văn chương, chúng ta hẳn xây dựng được một hàm lượng văn hóa đủ để điều hòa lời lẽ, tư duy.

1 Trần Ngọc Vương, “Một thế kỉ các khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam đối diện với thực tế” trong sách Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, H., NXB Tri thức, 2010, tr. 228

2 Xem thêm bài viết của Robert M. Young tại http://human-nature.com/mental/chap2.html

3 Tham khảo tại http://gray.intrasun.tcnj.edu/WWP/dialogue_culture.htm

Tác giả

(Visited 2 times, 1 visits today)