Nơi cưu mang những mảnh vỡ quá khứ
Có thể nói đây là một trong những “bảo tàng” tư nhân lớn nhất Việt Nam phản ánh gần như đầy đủ các giai đoạn từ tiền, sơ sử đến văn hóa Champa và văn hóa Việt sau này của Thừa Thiên – Huế … “Bảo tàng” còn gìn giữ nhiều hiện vật độc đáo chưa từng được tìm thấy qua khai quật khảo cổ học.
Nhưng bộ sưu tập cá nhân của Hồ Tấn Phan đã có hàng chục ngàn hiện vật gốm, sứ, đá, đồng phản ánh cả ba giai đoạn phát triển của vùng đất Thừa Thiên – Huế: từ giai đoạn tiền – sơ sử đến văn hóa Champa và văn hóa Việt sau này.
Đây là bộ sưu tập gốm Champa rất phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình hiện vật, có thể so sánh với bộ sưu tập gốm của cha An-tôn (linh mục Nguyễn Trường Thăng tại nhà thờ Trà Kiệu, Quảng Nam). Những hiện vật này được vớt từ dưới lòng các dòng sông ở Huế, đặc biệt là sông Hương.
Bộ sưu tập gốm của ông có ba nhóm chính:
– Nhóm hiện vật tiền Sa Huỳnh – Sa Huỳnh (thiên niên kỷ II TCN đến đầu CN), gồm đồ đá (rìu, bôn, bàn nghiền…); đồ gốm (đồ dùng sinh hoạt, đồ tùy táng, đồ gốm nghi lễ…), đồ đồng, sắt (đồ dùng sinh hoạt, vũ khí, công cụ sản xuất…).
– Nhóm hiện vật văn hóa Champa (TK II đến TK XIV) gồm hiện vật đá và đồ gốm Champa (đồ dùng sinh hoạt, đồ gốm nghi lễ, trang trí kiến trúc…).
– Nhóm hiện vật lịch sử (từ TK XIV đến thời Nguyễn và sau này), gồm hiện vật đồng, đồ sành, sứ…
Trong số khoảng 10 nghìn hiện vật gốm thuộc bộ sưu tập, đặc biệt phải kể đến những hiện vật gốm Champa thuộc giai đoạn Chăm sớm (từ TK I-II đến TK III-IV) như bình hình trứng, kendi (loại bình có vòi nhưng không quai, có thể có chân đế hoặc không; chức năng khá đa dạng: có thể dùng trong các nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng, sinh hoạt hoặc để tùy táng)…, và những hiện vật gốm khác tựa như những hiện vật điển hình cho lớp văn hóa dưới cùng của Trà Kiệu và lớp Champa sớm của di chỉ Gò Cấm (Quảng Nam)2.
Diện mạo văn hóa Champa ở Thừa Thiên – Huế, mảnh đất cực bắc của vương quốc Champa trong lịch sử, mới được phác dựng chủ yếu dựa trên khối tư liệu về những di tích đền tháp, kiến trúc, thành lũy, các tác phẩm điêu khắc đá, văn bia…. Nguồn tài liệu quan trọng bậc nhất, được coi như “hóa thạch chỉ đạo niên đại” đối với khảo cổ học là đồ gốm Champa ở khu vực Thừa Thiên – Huế vẫn chưa có được những phát hiện và nghiên cứu mới. |
Bình hình trứng là loại hình gốm đặc biệt, chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn từ đầu hay giữa thế kỷ I sau CN đến muộn nhất là cuối thế kỷ II sau CN, không thấy có những cổ típ từ trước và sau đó cũng không thấy dấu vết của loại gốm này. Cho đến nay, mới chỉ tìm thấy bình hình trứng ở lớp cư trú sớm nhất ở trong một số di chỉ: Trà Kiệu, Gò Cấm (Duy Xuyên, Quảng Nam), Hồ Điều Hòa (Hội An – Quảng Nam), Quế Phú (Quế Sơn, Quảng Nam); Vườn Đình – Khuê Bắc (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng), Xóm Ốc và Suối Chình (Lý Sơn, Quảng Ngãi). Trong đó, Gò Cấm là nơi tập trung số lượng lớn nhất của loại bình hình trứng. Bình hình trứng được xếp vào nhóm gốm có chức năng chuyên biệt, nhiều khả năng là một loại bình đựng và chuyển chất lỏng bằng phương tiện đường thủy. Loại hàng hóa mà bình hình trứng đựng có nhiều khả năng dành phục vụ những nhu cầu riêng (có thể là tôn giáo, tín ngưỡng) để trao đổi giữa các nhóm cư dân trong vùng và liên vùng ở khu vực miền Trung trong giai đoạn đầu của lịch sử Champa.
Chúng tôi đã tiếp cận hai chiếc bình hình trứng trong sưu tập Hồ Tấn Phan, loại hình tương tự những chiếc bình hình trứng đã tìm thấy ở Gò Cấm và Trà Kiệu3. Một trong hai chiếc bình còn khá nguyên vẹn, cao 24cm, đường kính miệng 9cm, dày trung bình 0,9cm, cổ và đáy dày 1,5cm. Gốm thô, dày, màu đen xám, bề mặt phủ một lớp patin nhẵn bóng, có lẽ do bị ngâm dưới nước lâu ngày. Bình được trang trí văn đập thô, rãnh đập rộng 0,5cm-0,7cm. Miệng đứng, mép miệng khá bằng, đôi chỗ bị sứt.
Bên cạnh bình hình trứng, bộ sưu tập Hồ Tấn Phan còn có những loại hình gốm khác có hình dạng, chất liệu, kỹ thuật chế tác, xử lý bề mặt và độ nung tương tự những đồ gốm tìm thấy trong các lớp văn hóa Chăm sớm ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên… như đồ gia dụng (nồi, vò, bình, hũ, lọ, đĩa, bát chân cao, bát, cốc…); gốm trang trí kiến trúc (trụ gốm…), gốm nghi lễ (kendi, vật hình tháp …). Về niên đại có thể tương đương với lớp dưới Trà Kiệu (từ TK I đến TK IV-V sau CN).
Sự có mặt của những hiện vật này cho thấy đồ gốm Champa trong sưu tập Hồ Tấn Phan không phải là những hiện vật đơn lẻ và được sưu tầm từ nơi khác đến. Có nhiều khả năng lưu vực sông Hương có những di tích Chăm sớm kiểu Trà Kiệu – Gò Cấm, là một trong những trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa phân bố ở lưu vực sông như các trường hợp sông Thu Bồn, Trà Khúc, Đà Rằng.
Có thể nói đây là một trong những “bảo tàng” tư nhân lớn nhất Việt Nam gìn giữ những di vật có giá trị, phản ánh gần như đầy đủ các giai đoạn lịch sử từ giai đoạn tiền, sơ sử đến giai đoạn Chăm sớm (TK I, II – III), giai đoạn Champa (từ TK IV-V đến TK XI-XII) và giai đoạn Champa – Đại Việt (TK XIII-XIV), văn hóa Đại Việt (TK XIV trở về sau)… Thậm chí nơi đây còn bảo lưu được nhiều loại hình hiện vật độc đáo chưa từng được tìm thấy qua khai quật khảo cổ học.
Hiện nay, trong điều kiện “nguồn cung” từ sông Hương đã cạn kiệt, nhiều hiện vật vớt từ lòng sông Hương và từ một số nơi khác ở Huế đã bị phân tán khắp nơi, những cổ vật của bộ sưu tập Hồ Tấn Phan càng trở nên quý giá. Vấn đề đặt ra là điều kiện trưng bày và bảo quản một số lượng khổng lồ hiện vật từ nhiều loại chất liệu đã nằm quá khả năng của chủ nhân bộ sưu tập. Nếu không sớm được tư liệu hóa và nghiên cứu một cách bài bản, hệ thống những hiện vật của sưu tập này với cách tiếp cận và phương pháp phù hợp thì sẽ khó có thể nhận diện một phần quan trọng của quá khứ Huế nói riêng và miền Trung Việt Nam nói chung.
Trước khi hẹn gặp ông, tôi đã được đọc nhiều bài viết về “vua đồ cổ xứ Huế” vốn nổi tiếng với nguyên tắc“chỉ mua chứ không bán”. Sau này, khi đã có thời gian tiếp xúc và làm việc với ông, tôi vẫn thường đùa với ông: – Bác Phan “ăn” cổ vật, “ngủ” cổ vật! Ông rất hóm hỉnh trả lời lại: – Thực ra là cổ vật nó “ăn” tui! Ông chưa bao giờ nói về giá trị bằng tiền của mỗi hiện vật mà chỉ nhớ đến hoàn cảnh đã đưa được chúng về trong khu vườn nhà mình. Đối với ông: “Những giá trị đó không tính được bằng tiền! Bởi đằng sau mỗi hiện vật là những giá trị lịch sử, văn hóa tinh thần của cha ông”. Chỉ tự nhận mình chỉ là“người giúp việc của dòng sông Hương” và coi khu vườn nhà là nơi cưu mang những mảnh vỡ của quá khứ, ông tâm nguyện phải gom góp, giữ gìn cẩn thận “kho báu dưới lòng sông Hương” để dành cho những ai quan tâm tìm hiểu. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức, ông nội làm quan dưới triều Nguyễn, bản thân ông là một thầy giáo tâm huyết với nghề dạy học và đam mê nghiên cứu lịch sử – văn hóa. Cơ duyên đưa ông đến với việc sưu tầm cổ vật bắt đầu từ cách đây hơn 30 năm khi ở Huế rộ lên phong trào trục vớt phế liệu dưới sông, trong đó có một số đồ gốm sứ cổ. Thời đó, người ta chưa ý thức được giá trị của những món hàng đó nên bán rẻ hoặc cho không. Do sẵn có vốn kiến thức về lịch sử – văn hóa, ông Phan hiểu rằng mỗi hiện vật tìm thấy dưới sông Hương đều mang trong mình một thông điệp của quá khứ, và ông tìm cách thu mua tất cả những gì người dân vạn đò vớt được. |
—
* Viện Khảo cổ học
1 Phạm Như Hồ 1997, Báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học di tích thành Hóa Châu (xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế), Tư liệu Viện Khảo cổ học Việt Nam.
Lê Đình Phúc, Nguyễn Văn Quảng, Nishimura Masanari 2009, Báo cáo kết quả thám sát thành Hóa Châu 2009. Tư liệu Khoa Lịch sử ĐH Khoa học Huế.
2 Nguyễn Chiều, Lâm Thị Mỹ Dung và Vũ Thị Ninh 1991, Đồ gốm trong cuộc khai quật di chỉ Chàm cổ ở Trà Kiệu năm 1990, Khảo cổ học, số 4.
Lâm Mỹ Dung, Nguyễn Anh Thư, Võ Hồng Việt 2011, Phát hiện bình hình trứng ở Huế và Hội An 2011, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2009, Hà Nội, Khoa học Xã hội, tr. 708-711.
Nguyễn Chiều và Trần Đức 2009, Thêm một địa chỉ có bình hình trứng và gốm Chàm cổ, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2008, Hà Nội, Từ điển bách khoa.
3 Nguyễn Chiều, Lâm Thị Mỹ Dung, Vũ Thị Ninh 1991, đã dẫn.
Nguyễn Chiều, Trần Đức 2009, đã dẫn.
Lâm Mỹ Dung, Nguyễn Anh Thư, Võ Hồng Việt 2011, đã dẫn.