Sáng tác văn chương Chăm hôm nay
A. Tại sao viết bằng tiếng Việt? Người Chăm làm văn chương trong một hoàn cảnh rất đặc thù. Thế hệ sinh vào những năm 40, 50 của thế kỉ XX từ lúc cắp sách đến trường đến khi trưởng thành đều học tiếng Việt, đọc sách tiếng Việt và nói... tiếng Chăm. Có thể nói chúng ta suy tư Việt đến 80%, nên sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ là điều cực khó.
Trước 1975, có Châu Văn Kên, Đàng Năng Quạ (nhạc) và Jaya Mưyut Cham (thơ), sau đó, thêm Tantu (nhạc) là các tác giả viết thuần tiếng Chăm. Nhưng đó là thế hệ đã bước qua tuổi 60. Còn thế hệ đàn em như Huyền Hoa, Jalau, Trầm Ngọc Lan (thơ) thì chỉ viết bằng tiếng phổ thông. Đứng trên một bậc là Từ Công Phụng. Nhưng các sáng tác của nhạc sĩ tài hoa này không mang chút nào tâm cảm Chăm. Sau hòa bình lập lại, tất cả đều chìm lặng. Riêng Tantu là người duy nhất còn động bút đến hôm nay, và chỉ có tiếng Chăm, nên có thể xem đây là trường hợp đặc biệt.
Sau này, hai khuôn mặt: Amư Nhân (nhạc) và Inrasara (thơ) ít nhiều được biết đến qua các sáng tác bằng tiếng Việt hơn là tiếng Chăm của họ (chiếm chưa tới 10%). Từ năm 2000, sau 7 số Tagalau, Tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm, vài người viết mới: Trà Vigia, Jalau Anưk, Bá Minh Trí… (thơ) đều dùng tiếng phổ thông để chuyển tải tình cảm, ý tưởng.
Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, Jaya Mưyut Chăm có bài thơ dài theo thể lục bát Việt viết khoảng 1967 (Nội san Ước vọng 1 của Trường trung học Pô-Klong); Inrasara với 15 bài bằng nhiều thể thơ khác nhau ở phần phụ lục của tập Sinh nhật cây xương rồng (1997); sau đó: Jaya Hamu Tanran nổi lên như là một cây bút nhiều hứa hẹn. Nhưng trong khi các ca khúc nhiều hay ít đều đã tạo được sôi nổi, hứng khởi của quần chúng thì với thơ, dường như chúng chưa đọng lại bao nhiêu trong lòng người đọc Chăm hờ hững(1).
Trên đây là vài điểm danh sơ bộ để có một cái nhìn khái quát.
Thân phận các bài thơ đương đại bằng tiếng Chăm thật bấp bênh. Bấp bênh như danh tiếng còm của kẻ mang nặng đẻ đau ra chúng.
Ngoài thực trạng văn hóa nghe nhìn đang ồ ạt xâm thực lãnh vực văn chương, người viết Chăm còn phải đối phó với bao thực tế khó khăn khác: về sinh nhai, ít người đọc, càng ít hơn nữa người biết tiếng Chăm để đọc. Con số lạc quan nhất: 1000 người nếu 10% người Chăm yêu văn chương, 200 người nếu 20% số người trên thông thạo tiếng mẹ đẻ. Đó là chưa nói đến địa bàn cư trú của người Chăm trải rộng khắp 10 tỉnh thuộc ba khu vực khác nhau. Khoảng 15.000 người Chăm Hroi ở Bình Định, Phú Yên không biết đến Akhar thrah/chữ truyền thống, 30.000 người Chăm Islam ở Nam Bộ cũng đã bỏ quên nó từ lâu rồi.
Như vậy nếu thực sự say mê văn chương, muốn sống chết với nó và cho nó, văn nghệ sĩ Chăm phải phóng tầm mắt ra ngoài về 53 dân tộc anh em khác trên đất nước Việt Nam.
Thế là họ tập tễnh làm thơ, viết văn bằng tiếng Việt. Và khi chấp nhận viết bằng tiếng Việt hay sáng tác song ngữ, họ sẽ đối mặt với một tình thế khác gây cấn hơn nữa.
Trở ngại đầu tiên của chúng ta gặp phải xuất phát từ chính chúng ta.
O thei ngap di drei o hai
Tamuh di hatai, drei ngap di drei.
Chả ai gây cho mình cả
Tâm mình sanh sự, mình tự hành mình
(Pauh Catwai).
Đó là thứ tâm lí mà tôi gọi là phức cảm tự ti-tự tôn dân tộc
Tự tôn về nền văn minh sáng chói của cha ông trong quá khứ. Được thôi. Nhưng nó đã thuộc về quá vãng. Với bản lĩnh của một nghệ sĩ, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua. Còn tự ti về cái lép vế ở mọi lãnh vực của hiện tại?
Đàng Năng Thọ trước đó hay Chế Kim Trung mới đây được vào Hội Mỹ thuật Việt Nam chẳng qua là đặc cách sắc tộc. Ca khúc Apsara – Vũ nữ Chàm của Amư Nhân được huy chương vàng cũng nhờ sự ưu ái về đề tài dân tộc. Tháp Nắng (1997) hay cả Lễ tẩy trần tháng Tư (2003) của Inrasara được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam là do có sự châm chế của Ban Giám khảo. Rồi mãi đến khi tập thơ này đoạt Giải thưởng Văn học Đông Nam Á, chúng ta vẫn không từ bỏ lối suy nghĩ đầy mặc cảm, như thế.v.v…
Hãy đứng vững nơi mảnh đất mình đứng, thu phối tinh khí của trời đất nơi mình đang sống, vận dụng nguồn nội lực tiềm ẩn để sáng tạo. Và chỉ sáng tạo. Bao giờ vượt qua được mặc cảm bé nhỏ, chúng ta mới có thể lớn.
Bức tường thứ hai chúng ta phải vượt bỏ là sự dằn vặt về đạo đức. Làm thơ, viết văn bằng tiếng Việt, chúng ta chợt mang mặc cảm của kẻ đào ngũ, kẻ bội phản quay lưng lại thân phận vốn đã quá éo le của ngôn ngữ dân tộc.
Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Chăm
Có bao lăm kẻ đọc, rồi sẽ còn ai nhớ
Nhưng tôi muốn phí cả đời mình cho nó
Dù chỉ còn dăm ba người
Dù chỉ còn một người
Hay ngay cả chẳng còn ai.
(Inrasara, Tháp nắng)
Có cường điệu quá không?
Hỏi chúng ta có đủ từ để diễn đạt tư tưởng, tình cảm? Và người đọc Chăm có đủ khả năng (ngôn ngữ Chăm) để hiểu sáng tác Chăm, trong khi họ chỉ được phổ cập tiếng mẹ đẻ hết cấp tiểu học, sau đó không có sách, báo nào khác để đọc thêm?
Không, mặc cảm đào ngũ là thừa. Lúc này, chúng ta chỉ có quyền chọn lựa: hoặc cứ mạnh dạn viết bằng tiếng Việt hay như Tagore sáng tác song ngữ hoặc như Brodsky sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, sau đó bạn bè chuyển sang tiếng phổ thông (Anh ngữ).
Cả sự sợ hãi thất bại không thể không được tính đến. Xây dựng ngôn ngữ văn chương cho riêng mình trong lòng tiếng mẹ đẻ đã khó, với ngôn ngữ thứ hai thì trăm lần khó hơn.
Nhưng giữa tiếng Chăm và tiếng Việt, với người Chăm hôm nay, đâu là ngôn ngữ thứ hai? Không nên tự lường gạt mình, câu trả lời sẽ là: tiếng Chăm.
Từ sự nhìn nhận thẳng thắn với nhau này, chúng ta dễ nhận định rằng lối viết ngây ngô ngọng nghịu của các tác giả dân tộc thiểu số thời gian qua được cả người sáng tác lẫn giới phê bình nâng niu như là đậm đà bản sắc chỉ là một ngộ nhận đáng buồn.
Chúng ta sáng tác bằng tiếng Việt không phải để dân tộc đa số thỉnh thoảng ghé mắt tò mò nhìn, nhìn bằng con mắt trên ngó xuống, như nhìn một thứ đặc sản! Mà phải như một tác giả ngang bằng – sòng phẳng và sạch sẽ.
Bức tường cuối cùng và có tính quyết định hơn cả mà chúng ta phải đối mặt là không có bức tường nào cả. Một khoảng mênh mông, trống vắng mở ra trước chúng ta. Lâu nay chúng ta quanh quẩn trong thôn ngoài xã, chúng ta được đùm bọc ấm áp trong không khí khuôn viên tỉnh lẻ. Vài bài thơ, ca khúc hay vài họa phẩm tầm tầm cũng đủ cho chúng ta một tên tuổi, chỗ đứng. Chúng ta an tâm ngủ yên trên đó. Đôi lúc cũng có vài cơn gió lạnh làm ta hắt hơi. Nhưng rồi đâu vào đấy.
Hôm nay, ta mạnh bạo bước ra ngoài (hay bị vứt ra ngoài?) thảo nguyên mênh mông, thành phố đầy ắp người. Đứng trước cơn gió lớn, đọ sức với số đông khổng lồ, chúng ta không tìm thấy nơi đặt chân; tuổi tên nhỏ nhoi của chúng ta có nguy cơ bị tiêu vong. Không thấy đâu là mục tiêu, chúng ta đi như bước vào chân không, hoang mang cực độ.
Chúng ta sẽ chồn chân và lui bước? Nhưng:
Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.
Chính nơi tưởng như không còn hy vọng tìm thấy dấu chân người, một mái nhà quê hương bất chợt hiện lên trước mắt con người sáng tạo. Ta tìm thấy mình.
Như vậy, khi đã giũ bỏ mọi gánh nặng mặc cảm hay phức cảm tự ti-tự tôn, và cả tâm thức sợ hãi, chúng ta bắt đầu dấn bước trên con đường định mệnh, con đường phiêu lưu đầy chông gai, bất trắc của sự sáng tạo.
B. Chúng ta bắt đầu từ đâu?
Hãy bắt đầu từ nơi chúng ta đang đứng. Bắt đầu từ nền tảng văn hóa Chăm.
Nhưng đâu là nền tảng? Cái gì là bản sắc văn hóa Chăm?
Suốt 17 thế kỉ dựng xây và vun đắp, văn hóa-văn minh Champa đã phát triển đến cao độ. Nó vừa là nhân vừa là quả của tư duy Chăm, cả tư duy bình dân lẫn tư duy bác học (tư duy phức hợp, tư duy trừu tượng, siêu hình, tư biện, suy lý…), biểu hiện ở bề nổi lẫn phần chìm trong mọi khía cạnh, lĩnh vực.
Bên cạnh Ấn Độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo, là tín ngưỡng dân gian vừa mang tính khu vực vừa mang tính dân tộc; bên cạnh múa cung đình: Apsara, Shiva…, Chăm sở hữu các điệu vũ dân gian: Biyen, Tiaung…; bên cạnh phương pháp nung gạch tháp kỹ thuật cao là lối nung gốm giản đơn và tiện dụng…
Văn chương như là một thành tố của văn hóa-văn minh Champa cũng không là một ngoại lệ. Song hành với văn chương bình dân phong phú: tục ngữ, ca dao, truyện cổ… là cả một kho tàng văn chương bác học đặc sắc và đa dạng: văn bi ký, sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lý, gia huấn ca… Tiếng Chăm như người mẹ cưu mang đồng thời là đứa con đẻ của nền văn chương này cũng đã đạt đến độ vừa giàu sang vừa tinh tế.
Nhưng nền văn hóa-văn minh ấy đã thất tán quá nhiều. Mảnh vụn của nó đang vương vãi khắp nơi. Nỗ lực thu gom hầu dựng lại khuôn mặt của nó của mấy thế hệ nhà nghiên cứu từ một thế kỉ qua cũng chưa thấm tháp vào đâu, so với đòi hỏi của nó.
Nhiệm vụ của văn nghệ sĩ Chăm là phải thâm nhập, lùng sục vào mọi xó xỉnh nền văn chương này, cắm rễ thật sâu đến những vùng tối nhất của nền văn hóa-văn minh này. Nếu không muốn mất gốc, không muốn bị bứng ra khỏi nguồn cội.
Nhà văn Chăm sáng tác bằng tiếng phổ thông hay viết cùng lúc hai thứ tiếng thì phải gánh thêm một phần việc nữa. Anh/chị phải làm nhiệm vụ như một thông dịch viên tâm hồn. Nhưng chính nhiệm vụ này sẽ làm mới ngôn ngữ anh/chị nếu anh/chị biết khai thác, tận dụng mọi ưu thế của nó.
Cũng như chính những dòng lũ của trào lưu văn nghệ hiện đại sẽ làm phong nhiêu cánh đồng văn chương anh/chị, nếu anh/chị không sợ hãi để bạt ngàn cây lúa anh/chị đón nhận mọi phù sa mới mà không để bị bật rễ khỏi nền đất ruộng quê hương.
Bản sắc dân tộc không chấp nhận sự dậm chân tại chỗ, nằm ì trong nhà. Con cháu cứ mãi ru rú trong vòng tay tổ tiên chính là con cháu phản bội tổ tiên.
Hãy để tháp Cánh Tiên, tháp Chùa với nhà trùng tu thi gan cùng giông bão.
Và hãy để yên những Tara, Garuda trong viện bảo tàng
Po Klaung, Xah Bin – xin thắp ngọn nến, nén nhang.
Hãy canh chừng hai buồng phổi ta thiếu oxy bởi khói.
(Inrasara, Tháp Nắng)
Kẻ sáng tạo không chấp nhận làm người giữ kho cho cha ông, dẫu kho đó chứa bao vàng bạc châu báu.
Hãy đóng lại quá khứ. Và lên đường.
C. Chúng ta bước đi như thế nào?
Nói như Goethe: Ba yếu tố tạo nên kiệt tác là dân tộc đó có điều lớn lao để nói với nhân loại, có thiên tài để nói điều đó lên bằng một cấu trúc nghệ thuật, và người đó làm việc ở thời kì sung sức nhất.
Như vậy, người Chăm có điều gì lớn lao để nói, nói như thế nào, và ai sẽ là thiên tài nói lên cái đó?
Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn thật sự hầu như chỉ xảy đến một lần duy nhất, như là tạo hóa đúc ra cái khuôn cho riêng nó để sau đó đập vỡ khuôn đi. Nên tất cả thứ phẩm bắt chước đều lố bịch, ngớ ngẩn. Một Ariya Bini – Cam, Glơng Anak, Pauh Catwai hay Ariya Nau Ikak không bao giờ kéo lê dấu vết của các sáng tác có trước nó. Nó là độc sáng, độc nhất và vô nhị.
Viết cho ai? Viết cái gì? Và viết như thế nào? Ba câu hỏi lớn mà Sartre đã đặt ra từ hơn nửa thế kỉ qua và đã giải quyết gần như rốt ráo rồi. Cho ông và cho nhà văn thế hệ ông.
Nhưng kinh nghiệm của tiền nhân Chăm (và cả phương Đông, có lẽ) mách bảo chúng ta rằng đặt câu hỏi như thế là thừa. Thừa và phi lý nữa.
Kẻ sáng tạo thật sự không tự đặt câu hỏi: viết cái gì. Ông có thể viết bất cứ cái gì, chúng không ít thì nhiều vẫn tỏ bày cái tâm thế của ông. Ông cũng không tra hỏi mình viết cho ai nữa. Ông viết cho ông và cho tất cả mọi người. Glơng Anak, Pauh Catwai không chia độc giả của mình thuộc trung nhân dĩ hạ hay dĩ thượng lúc sáng tác để mà uốn nắn ngòi bút cho phù hợp. Ông viết, thế thôi. Mặc cho người đọc đời sau muốn hiểu ra sao thì hiểu (Kim Thánh Thán bình thơ Thôi Hiệu).
Hỏi: đến hôm nay ai trong chúng ta dám tự hào rằng đã hiểu rốt ráo Glơng Anak, Pauh Catwai hay thậm chí Ariya Bini – Cam nói những gì?
Hệ luận: viết như thế nào cũng hoàn toàn không cần thiết có mặt. Ông viết thế nào thì văn chương chữ nghĩa vẫn bộc lộ cái khí của ông. Khi ông đã độc sáng thì tư tưởng nghệ thuật ông cũng độc sáng. Ông tiêu hóa lục bát, đường luật, sonnet, haiku, tự do… Ông chắt lọc Hiện thực, Tượng trưng, Siêu thực, Hậu hiện đại… để bật ra cái riêng ông.
Nói theo Whitman:
Tôi là tụ điểm tuyệt đích của mọi sự vật đã hoàn bị
Và tôi cưu mang những sự vật chưa hình thành.
Nhưng không phải tất cả đều phó mặc cho duyên phận: tùy tiện chủ nghĩa, tự nhiên chủ nghĩa và thậm chí – tự động chủ nghĩa. Như J.P.Sartre nói: chúng ta sống là sống trong chọn lựa. Trong thế giới rậm rạp phong nhiêu này, chúng ta có cả một đại cửa hàng bách hóa chủ nghĩa để chọn lựa.
Trở lại với tiên đề của Goethe. Chúng ta có cái gì để viết, viết bằng nghệ thuật (mới) nào, không quan trọng bằng ai viết. Kẻ sáng tạo chân tính tự khắc sẽ hiểu đâu là đề tài nền tảng đồng thời nổi cộm mang tính đánh động nhất để đầu tư, nghiền ngẫm. Rồi trong quá trình sáng tạo, nghệ thuật của ông sẽ tự hình thành. Nhưng Ai viết? Ai sẽ là thiên tài trong Chăm để nói lên điều lớn lao nhất trong xã hội Chăm (trong lòng đất nước Việt Nam) tới nhân loại?
Ai trong chúng ta và thế hệ sau sẽ dầm mình vào dòng sông văn hóa dân tộc.
Ai trong chúng ta bắt được nhịp đập trái tim dân tộc, mạch chảy của đời sống dân tộc.
Ai trong chúng ta vượt qua mô đất phức cảm tự ti – tự tôn dân tộc, mặc cảm tỉnh lẻ, nhà quê hay sắc tộc.
Ai trong chúng ta quyết từ bỏ rỉ rên: khổ lắm, đời sống khó khăn lắm, hoàn cảnh lắm, bị đối xử phân biệt ghê lắm…
Ai trong chúng ta không sợ hãi thất bại, dám đọ sức với số đông xa lạ.
Dám từ chối các đặc ân, ưu ái, đãi ngộ ngoài nghệ thuật, từ chối dựa hơi vào mọi loại chức danh, chức vị. Để đừng phải ngủ quên trên đám mây hư vinh xôm xốp chưa cân xứng với thực tài. Để mình được là mình, tự do và tự tại mà sống mà sáng tạo.
Chịu khiêm cung ẩn mình trong một thời gian dài, hoài thai trong bóng tối vô danh. Để rụng vào đúng thời điểm chín tới của tài năng. Tránh tình trạng đẻ non, chết yểu.
Ai trong chúng ta dũng cảm đóng lại quá khứ, dứt áo với đồng bằng quen thuộc để nhìn về trùng khơi xa lạ.
Ai trong chúng ta dám đánh liều đời mình cho nghệ thuật, cho những đỉnh núi cao vòi vọi của văn chương.
Hắn sẽ là kẻ sáng tạo, là thiên tài sáng tạo.
Mười bảy thế kỉ văn hóa-văn minh Champa với những đỉnh cao nghệ thuật: Tháp E1 Mỹ Sơn, tháp Cánh Tiên… tượng Phật Đồng Dương, tượng Vũ nữ Trà Kiệu…, các kiệt tác văn chương: Ariya Glơng Anak, Ariya Bini – Cam…
Dù hôm nay cuộc sống với bao gập ghềnh, liêu xiêu, chúng ta vẫn có quyền hy vọng.
—————-
* Bởi người viết văn Chăm còn quá ít, nên tôi tạm gộp luôn các tác giả sáng tác ca khúc vào trong bài phân tích. Vả lại, thiết nghĩ phần ca từ các ca khúc này cũng đã góp một phần quan trọng tạo nên khuôn mặt văn chương – chữ nghĩa Chăm hôm nay.
Sau này, hai khuôn mặt: Amư Nhân (nhạc) và Inrasara (thơ) ít nhiều được biết đến qua các sáng tác bằng tiếng Việt hơn là tiếng Chăm của họ (chiếm chưa tới 10%). Từ năm 2000, sau 7 số Tagalau, Tuyển tập sáng tác – sưu tầm – nghiên cứu Chăm, vài người viết mới: Trà Vigia, Jalau Anưk, Bá Minh Trí… (thơ) đều dùng tiếng phổ thông để chuyển tải tình cảm, ý tưởng.
Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, Jaya Mưyut Chăm có bài thơ dài theo thể lục bát Việt viết khoảng 1967 (Nội san Ước vọng 1 của Trường trung học Pô-Klong); Inrasara với 15 bài bằng nhiều thể thơ khác nhau ở phần phụ lục của tập Sinh nhật cây xương rồng (1997); sau đó: Jaya Hamu Tanran nổi lên như là một cây bút nhiều hứa hẹn. Nhưng trong khi các ca khúc nhiều hay ít đều đã tạo được sôi nổi, hứng khởi của quần chúng thì với thơ, dường như chúng chưa đọng lại bao nhiêu trong lòng người đọc Chăm hờ hững(1).
Trên đây là vài điểm danh sơ bộ để có một cái nhìn khái quát.
Thân phận các bài thơ đương đại bằng tiếng Chăm thật bấp bênh. Bấp bênh như danh tiếng còm của kẻ mang nặng đẻ đau ra chúng.
Ngoài thực trạng văn hóa nghe nhìn đang ồ ạt xâm thực lãnh vực văn chương, người viết Chăm còn phải đối phó với bao thực tế khó khăn khác: về sinh nhai, ít người đọc, càng ít hơn nữa người biết tiếng Chăm để đọc. Con số lạc quan nhất: 1000 người nếu 10% người Chăm yêu văn chương, 200 người nếu 20% số người trên thông thạo tiếng mẹ đẻ. Đó là chưa nói đến địa bàn cư trú của người Chăm trải rộng khắp 10 tỉnh thuộc ba khu vực khác nhau. Khoảng 15.000 người Chăm Hroi ở Bình Định, Phú Yên không biết đến Akhar thrah/chữ truyền thống, 30.000 người Chăm Islam ở Nam Bộ cũng đã bỏ quên nó từ lâu rồi.
Như vậy nếu thực sự say mê văn chương, muốn sống chết với nó và cho nó, văn nghệ sĩ Chăm phải phóng tầm mắt ra ngoài về 53 dân tộc anh em khác trên đất nước Việt Nam.
Thế là họ tập tễnh làm thơ, viết văn bằng tiếng Việt. Và khi chấp nhận viết bằng tiếng Việt hay sáng tác song ngữ, họ sẽ đối mặt với một tình thế khác gây cấn hơn nữa.
Trở ngại đầu tiên của chúng ta gặp phải xuất phát từ chính chúng ta.
O thei ngap di drei o hai
Tamuh di hatai, drei ngap di drei.
Chả ai gây cho mình cả
Tâm mình sanh sự, mình tự hành mình
(Pauh Catwai).
Đó là thứ tâm lí mà tôi gọi là phức cảm tự ti-tự tôn dân tộc
Tự tôn về nền văn minh sáng chói của cha ông trong quá khứ. Được thôi. Nhưng nó đã thuộc về quá vãng. Với bản lĩnh của một nghệ sĩ, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua. Còn tự ti về cái lép vế ở mọi lãnh vực của hiện tại?
Đàng Năng Thọ trước đó hay Chế Kim Trung mới đây được vào Hội Mỹ thuật Việt Nam chẳng qua là đặc cách sắc tộc. Ca khúc Apsara – Vũ nữ Chàm của Amư Nhân được huy chương vàng cũng nhờ sự ưu ái về đề tài dân tộc. Tháp Nắng (1997) hay cả Lễ tẩy trần tháng Tư (2003) của Inrasara được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam là do có sự châm chế của Ban Giám khảo. Rồi mãi đến khi tập thơ này đoạt Giải thưởng Văn học Đông Nam Á, chúng ta vẫn không từ bỏ lối suy nghĩ đầy mặc cảm, như thế.v.v…
Hãy đứng vững nơi mảnh đất mình đứng, thu phối tinh khí của trời đất nơi mình đang sống, vận dụng nguồn nội lực tiềm ẩn để sáng tạo. Và chỉ sáng tạo. Bao giờ vượt qua được mặc cảm bé nhỏ, chúng ta mới có thể lớn.
Bức tường thứ hai chúng ta phải vượt bỏ là sự dằn vặt về đạo đức. Làm thơ, viết văn bằng tiếng Việt, chúng ta chợt mang mặc cảm của kẻ đào ngũ, kẻ bội phản quay lưng lại thân phận vốn đã quá éo le của ngôn ngữ dân tộc.
Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Chăm
Có bao lăm kẻ đọc, rồi sẽ còn ai nhớ
Nhưng tôi muốn phí cả đời mình cho nó
Dù chỉ còn dăm ba người
Dù chỉ còn một người
Hay ngay cả chẳng còn ai.
(Inrasara, Tháp nắng)
Có cường điệu quá không?
Hỏi chúng ta có đủ từ để diễn đạt tư tưởng, tình cảm? Và người đọc Chăm có đủ khả năng (ngôn ngữ Chăm) để hiểu sáng tác Chăm, trong khi họ chỉ được phổ cập tiếng mẹ đẻ hết cấp tiểu học, sau đó không có sách, báo nào khác để đọc thêm?
Không, mặc cảm đào ngũ là thừa. Lúc này, chúng ta chỉ có quyền chọn lựa: hoặc cứ mạnh dạn viết bằng tiếng Việt hay như Tagore sáng tác song ngữ hoặc như Brodsky sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, sau đó bạn bè chuyển sang tiếng phổ thông (Anh ngữ).
Cả sự sợ hãi thất bại không thể không được tính đến. Xây dựng ngôn ngữ văn chương cho riêng mình trong lòng tiếng mẹ đẻ đã khó, với ngôn ngữ thứ hai thì trăm lần khó hơn.
Nhưng giữa tiếng Chăm và tiếng Việt, với người Chăm hôm nay, đâu là ngôn ngữ thứ hai? Không nên tự lường gạt mình, câu trả lời sẽ là: tiếng Chăm.
Từ sự nhìn nhận thẳng thắn với nhau này, chúng ta dễ nhận định rằng lối viết ngây ngô ngọng nghịu của các tác giả dân tộc thiểu số thời gian qua được cả người sáng tác lẫn giới phê bình nâng niu như là đậm đà bản sắc chỉ là một ngộ nhận đáng buồn.
Chúng ta sáng tác bằng tiếng Việt không phải để dân tộc đa số thỉnh thoảng ghé mắt tò mò nhìn, nhìn bằng con mắt trên ngó xuống, như nhìn một thứ đặc sản! Mà phải như một tác giả ngang bằng – sòng phẳng và sạch sẽ.
Bức tường cuối cùng và có tính quyết định hơn cả mà chúng ta phải đối mặt là không có bức tường nào cả. Một khoảng mênh mông, trống vắng mở ra trước chúng ta. Lâu nay chúng ta quanh quẩn trong thôn ngoài xã, chúng ta được đùm bọc ấm áp trong không khí khuôn viên tỉnh lẻ. Vài bài thơ, ca khúc hay vài họa phẩm tầm tầm cũng đủ cho chúng ta một tên tuổi, chỗ đứng. Chúng ta an tâm ngủ yên trên đó. Đôi lúc cũng có vài cơn gió lạnh làm ta hắt hơi. Nhưng rồi đâu vào đấy.
Hôm nay, ta mạnh bạo bước ra ngoài (hay bị vứt ra ngoài?) thảo nguyên mênh mông, thành phố đầy ắp người. Đứng trước cơn gió lớn, đọ sức với số đông khổng lồ, chúng ta không tìm thấy nơi đặt chân; tuổi tên nhỏ nhoi của chúng ta có nguy cơ bị tiêu vong. Không thấy đâu là mục tiêu, chúng ta đi như bước vào chân không, hoang mang cực độ.
Chúng ta sẽ chồn chân và lui bước? Nhưng:
Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.
Chính nơi tưởng như không còn hy vọng tìm thấy dấu chân người, một mái nhà quê hương bất chợt hiện lên trước mắt con người sáng tạo. Ta tìm thấy mình.
Như vậy, khi đã giũ bỏ mọi gánh nặng mặc cảm hay phức cảm tự ti-tự tôn, và cả tâm thức sợ hãi, chúng ta bắt đầu dấn bước trên con đường định mệnh, con đường phiêu lưu đầy chông gai, bất trắc của sự sáng tạo.
B. Chúng ta bắt đầu từ đâu?
Hãy bắt đầu từ nơi chúng ta đang đứng. Bắt đầu từ nền tảng văn hóa Chăm.
Nhưng đâu là nền tảng? Cái gì là bản sắc văn hóa Chăm?
Suốt 17 thế kỉ dựng xây và vun đắp, văn hóa-văn minh Champa đã phát triển đến cao độ. Nó vừa là nhân vừa là quả của tư duy Chăm, cả tư duy bình dân lẫn tư duy bác học (tư duy phức hợp, tư duy trừu tượng, siêu hình, tư biện, suy lý…), biểu hiện ở bề nổi lẫn phần chìm trong mọi khía cạnh, lĩnh vực.
Bên cạnh Ấn Độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo, là tín ngưỡng dân gian vừa mang tính khu vực vừa mang tính dân tộc; bên cạnh múa cung đình: Apsara, Shiva…, Chăm sở hữu các điệu vũ dân gian: Biyen, Tiaung…; bên cạnh phương pháp nung gạch tháp kỹ thuật cao là lối nung gốm giản đơn và tiện dụng…
Văn chương như là một thành tố của văn hóa-văn minh Champa cũng không là một ngoại lệ. Song hành với văn chương bình dân phong phú: tục ngữ, ca dao, truyện cổ… là cả một kho tàng văn chương bác học đặc sắc và đa dạng: văn bi ký, sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lý, gia huấn ca… Tiếng Chăm như người mẹ cưu mang đồng thời là đứa con đẻ của nền văn chương này cũng đã đạt đến độ vừa giàu sang vừa tinh tế.
Nhưng nền văn hóa-văn minh ấy đã thất tán quá nhiều. Mảnh vụn của nó đang vương vãi khắp nơi. Nỗ lực thu gom hầu dựng lại khuôn mặt của nó của mấy thế hệ nhà nghiên cứu từ một thế kỉ qua cũng chưa thấm tháp vào đâu, so với đòi hỏi của nó.
Nhiệm vụ của văn nghệ sĩ Chăm là phải thâm nhập, lùng sục vào mọi xó xỉnh nền văn chương này, cắm rễ thật sâu đến những vùng tối nhất của nền văn hóa-văn minh này. Nếu không muốn mất gốc, không muốn bị bứng ra khỏi nguồn cội.
Đó là điều khó khăn. Càng khó khăn hơn nữa khi người nghệ sĩ sáng tạo hôm nay đang đứng trước bao cơn lốc thất thường của các trào lưu văn chương, triết học từ mọi nơi đổ tới. Khó khăn thách thức nghị lực, tài năng và bản lĩnh kẻ sáng tạo. Khó khăn làm tăng giá trị của hành trình và thành quả.
Nhà văn Chăm sáng tác bằng tiếng phổ thông hay viết cùng lúc hai thứ tiếng thì phải gánh thêm một phần việc nữa. Anh/chị phải làm nhiệm vụ như một thông dịch viên tâm hồn. Nhưng chính nhiệm vụ này sẽ làm mới ngôn ngữ anh/chị nếu anh/chị biết khai thác, tận dụng mọi ưu thế của nó.
Cũng như chính những dòng lũ của trào lưu văn nghệ hiện đại sẽ làm phong nhiêu cánh đồng văn chương anh/chị, nếu anh/chị không sợ hãi để bạt ngàn cây lúa anh/chị đón nhận mọi phù sa mới mà không để bị bật rễ khỏi nền đất ruộng quê hương.
Bản sắc dân tộc không chấp nhận sự dậm chân tại chỗ, nằm ì trong nhà. Con cháu cứ mãi ru rú trong vòng tay tổ tiên chính là con cháu phản bội tổ tiên.
Hãy để tháp Cánh Tiên, tháp Chùa với nhà trùng tu thi gan cùng giông bão.
Và hãy để yên những Tara, Garuda trong viện bảo tàng
Po Klaung, Xah Bin – xin thắp ngọn nến, nén nhang.
Hãy canh chừng hai buồng phổi ta thiếu oxy bởi khói.
(Inrasara, Tháp Nắng)
Kẻ sáng tạo không chấp nhận làm người giữ kho cho cha ông, dẫu kho đó chứa bao vàng bạc châu báu.
Hãy đóng lại quá khứ. Và lên đường.
C. Chúng ta bước đi như thế nào?
Nói như Goethe: Ba yếu tố tạo nên kiệt tác là dân tộc đó có điều lớn lao để nói với nhân loại, có thiên tài để nói điều đó lên bằng một cấu trúc nghệ thuật, và người đó làm việc ở thời kì sung sức nhất.
Như vậy, người Chăm có điều gì lớn lao để nói, nói như thế nào, và ai sẽ là thiên tài nói lên cái đó?
Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn thật sự hầu như chỉ xảy đến một lần duy nhất, như là tạo hóa đúc ra cái khuôn cho riêng nó để sau đó đập vỡ khuôn đi. Nên tất cả thứ phẩm bắt chước đều lố bịch, ngớ ngẩn. Một Ariya Bini – Cam, Glơng Anak, Pauh Catwai hay Ariya Nau Ikak không bao giờ kéo lê dấu vết của các sáng tác có trước nó. Nó là độc sáng, độc nhất và vô nhị.
Viết cho ai? Viết cái gì? Và viết như thế nào? Ba câu hỏi lớn mà Sartre đã đặt ra từ hơn nửa thế kỉ qua và đã giải quyết gần như rốt ráo rồi. Cho ông và cho nhà văn thế hệ ông.
Nhưng kinh nghiệm của tiền nhân Chăm (và cả phương Đông, có lẽ) mách bảo chúng ta rằng đặt câu hỏi như thế là thừa. Thừa và phi lý nữa.
Kẻ sáng tạo thật sự không tự đặt câu hỏi: viết cái gì. Ông có thể viết bất cứ cái gì, chúng không ít thì nhiều vẫn tỏ bày cái tâm thế của ông. Ông cũng không tra hỏi mình viết cho ai nữa. Ông viết cho ông và cho tất cả mọi người. Glơng Anak, Pauh Catwai không chia độc giả của mình thuộc trung nhân dĩ hạ hay dĩ thượng lúc sáng tác để mà uốn nắn ngòi bút cho phù hợp. Ông viết, thế thôi. Mặc cho người đọc đời sau muốn hiểu ra sao thì hiểu (Kim Thánh Thán bình thơ Thôi Hiệu).
Hỏi: đến hôm nay ai trong chúng ta dám tự hào rằng đã hiểu rốt ráo Glơng Anak, Pauh Catwai hay thậm chí Ariya Bini – Cam nói những gì?
Hệ luận: viết như thế nào cũng hoàn toàn không cần thiết có mặt. Ông viết thế nào thì văn chương chữ nghĩa vẫn bộc lộ cái khí của ông. Khi ông đã độc sáng thì tư tưởng nghệ thuật ông cũng độc sáng. Ông tiêu hóa lục bát, đường luật, sonnet, haiku, tự do… Ông chắt lọc Hiện thực, Tượng trưng, Siêu thực, Hậu hiện đại… để bật ra cái riêng ông.
Nói theo Whitman:
Tôi là tụ điểm tuyệt đích của mọi sự vật đã hoàn bị
Và tôi cưu mang những sự vật chưa hình thành.
Nhưng không phải tất cả đều phó mặc cho duyên phận: tùy tiện chủ nghĩa, tự nhiên chủ nghĩa và thậm chí – tự động chủ nghĩa. Như J.P.Sartre nói: chúng ta sống là sống trong chọn lựa. Trong thế giới rậm rạp phong nhiêu này, chúng ta có cả một đại cửa hàng bách hóa chủ nghĩa để chọn lựa.
Trở lại với tiên đề của Goethe. Chúng ta có cái gì để viết, viết bằng nghệ thuật (mới) nào, không quan trọng bằng ai viết. Kẻ sáng tạo chân tính tự khắc sẽ hiểu đâu là đề tài nền tảng đồng thời nổi cộm mang tính đánh động nhất để đầu tư, nghiền ngẫm. Rồi trong quá trình sáng tạo, nghệ thuật của ông sẽ tự hình thành. Nhưng Ai viết? Ai sẽ là thiên tài trong Chăm để nói lên điều lớn lao nhất trong xã hội Chăm (trong lòng đất nước Việt Nam) tới nhân loại?
Ai trong chúng ta và thế hệ sau sẽ dầm mình vào dòng sông văn hóa dân tộc.
Ai trong chúng ta bắt được nhịp đập trái tim dân tộc, mạch chảy của đời sống dân tộc.
Ai trong chúng ta vượt qua mô đất phức cảm tự ti – tự tôn dân tộc, mặc cảm tỉnh lẻ, nhà quê hay sắc tộc.
Ai trong chúng ta quyết từ bỏ rỉ rên: khổ lắm, đời sống khó khăn lắm, hoàn cảnh lắm, bị đối xử phân biệt ghê lắm…
Ai trong chúng ta không sợ hãi thất bại, dám đọ sức với số đông xa lạ.
Dám từ chối các đặc ân, ưu ái, đãi ngộ ngoài nghệ thuật, từ chối dựa hơi vào mọi loại chức danh, chức vị. Để đừng phải ngủ quên trên đám mây hư vinh xôm xốp chưa cân xứng với thực tài. Để mình được là mình, tự do và tự tại mà sống mà sáng tạo.
Chịu khiêm cung ẩn mình trong một thời gian dài, hoài thai trong bóng tối vô danh. Để rụng vào đúng thời điểm chín tới của tài năng. Tránh tình trạng đẻ non, chết yểu.
Ai trong chúng ta dũng cảm đóng lại quá khứ, dứt áo với đồng bằng quen thuộc để nhìn về trùng khơi xa lạ.
Ai trong chúng ta dám đánh liều đời mình cho nghệ thuật, cho những đỉnh núi cao vòi vọi của văn chương.
Hắn sẽ là kẻ sáng tạo, là thiên tài sáng tạo.
Mười bảy thế kỉ văn hóa-văn minh Champa với những đỉnh cao nghệ thuật: Tháp E1 Mỹ Sơn, tháp Cánh Tiên… tượng Phật Đồng Dương, tượng Vũ nữ Trà Kiệu…, các kiệt tác văn chương: Ariya Glơng Anak, Ariya Bini – Cam…
Dù hôm nay cuộc sống với bao gập ghềnh, liêu xiêu, chúng ta vẫn có quyền hy vọng.
—————-
* Bởi người viết văn Chăm còn quá ít, nên tôi tạm gộp luôn các tác giả sáng tác ca khúc vào trong bài phân tích. Vả lại, thiết nghĩ phần ca từ các ca khúc này cũng đã góp một phần quan trọng tạo nên khuôn mặt văn chương – chữ nghĩa Chăm hôm nay.
Inrasara
(Visited 7 times, 1 visits today)