Tề Bạch Thạch: Lột xác ở tuổi sáu mươi nhờ tình bạn tri kỷ

Mỗi khi nhắc về Trung Quốc họa, người ta sẽ nghĩ ngay đến Tề Bạch Thạch như một đại diện kiệt xuất của nền mỹ thuật hơn hai nghìn năm tuổi này. Nhưng ít có ai biết rằng, người họa sĩ vĩ đại mà di sản để lại nhiều hơn ba vạn bức tranh kia lại có một sự chuyển biến bản thân hết sức nhọc nhằn và muộn màng. Cuộc đời nghệ thuật của ông là minh chứng cho tinh thần cầu thị cao cả, sự cần cù khổ luyện không ngừng để đi đến thành công.


Tề Bạch Thạch 1864- 1957). Nguồn: sohu

Người yêu nghệ thuật ngày hôm nay biết về Tề Bạch Thạch thường thông qua những bức tranh tôm cua sống động như đang bơi lội nhảy nhót, những chú gà con tròn xoe như những nắm bông, những bó cải trắng, nấm hương, cà rốt, những quả bầu nậm đung đưa trong gió… và cả một thế giới cỏ cây hoa lá chim thú thảo trùng sinh động hồn nhiên như trẻ thơ. Thực chất cái thế giới hồn nhiên như trẻ thơ đó lại bắt đầu xuất hiện dưới đôi bàn tay của một họa sĩ khi mà tuổi đời đã xế chiều. “Suy niên biến pháp”, nghĩa là “tuổi già đổi phép” đã trở thành một câu chuyện nổi tiếng trong giới họa Trung Quốc. Và nguyên nhân của sự lột xác ngoạn mục đó lại xuất phát từ một tình bạn tri kỉ bất kể tuổi tác của hai danh họa đầu thế kỉ 20, đó là Tề Bạch Thạch và Trần Sư Tăng.

Nguồn cơn của mối nhân duyên này bắt đầu vào năm 1917, chiến tranh quân phiệt diễn ra liên miên, thổ phỉ hoành hành khắp vùng Hồ Nam, Tề Bạch Thạch giờ đã 55 tuổi buộc phải đưa gia đình đi lánh nạn ở Bắc Kinh, trú ngụ qua ngày ở chùa Pháp nguyên, lấy việc vẽ tranh bán ấn làm kế sinh nhai. Vào giai đoạn này, Tề Bạch Thạch đang chịu ảnh hưởng phong cách đạm dật lánh đời của Bát Đại sơn nhân1. Mặc dù ở quê hương mình ông đã gây dựng được không ít tiếng tăm, nhưng đến kinh đô mọi chuyện lại khác, tranh của ông không được giới thưởng ngoạn ở Bắc Kinh đánh giá cao. Mặc dù chỉ bán tranh bằng nửa giá những họa gia làng nhàng khác nhưng tranh ông vẫn không được ai đoái hoài, cuộc sống hết sức cùng khốn.

Nhưng cũng chính vào giai đoạn bế tắc đó, một nhân vật đã xuất hiện tạo nên một bước chuyển biến ngoạn mục trong sự nghiệp nghệ thuật của Tề Bạch Thạch, mà sau này người đời đã ví ông như Bá Nhạc2, người có con mắt tinh tường nhìn ra cái nội lực tiềm ẩn của Thiên lý mã vậy.  Đó là danh họa Trần Sư Tăng (陈师曾). Vậy Trần Sư Tăng là ai?

Ông tên thật là Trần Hành Khác (陈衡恪), người Giang Tây Nghĩa Ninh (hiện là huyện Tu Thủy, tỉnh Giang Tây), hiệu là Hủ Đạo nhân (朽道人), Hòe Đường (槐堂), một trong những nhà cải cách giáo dục nghệ thuật danh tiếng, ngọn cờ lớn của họa đàn Bắc Kinh đầu thế kỷ 20. Tranh sơn thủy của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thẩm Châu 3, Thạch Đào 4, đề cao việc học tập tự nhiên, phản đối tư duy câu nệ cổ pháp, sao chép cổ nhân đang thịnh hành đương thời. Trong thể loại hoa điểu ông lại chịu ảnh hưởng lớn từ Ngô Xương Thạc5, Từ Vị6, Trần Thuần7. Bút pháp đại tả ý8 hùng sảng khoáng đạt, tự do bôn phóng, ý thú lâm li hào mại, phiêu dật tân kỳ.

Vào một ngày dường như là định mệnh, Trần Sư Tăng bắt gặp ấn chương của Tề Bạch Thạch đang gửi bán ở hiệu giấy Lưu ly xưởng. Cảm thấy vô cùng thích thú, ông liền tìm đến gia đình họ Tề đang cư ngụ tại chùa Pháp Nguyên. Mặc dù Tề Bạch Thạch hơn Trần Sư Tăng những mười hai tuổi, nhưng như thể số trời đã định sẵn cho đôi bạn tri kỉ, cả hai đều không câu nệ tuổi tác, lời lời nói ra đều tâm đầu ý hợp. Kể từ đó, Tề Bạch Thạch ngày ngày tìm đến Hòe đường nơi nhà Trần Sư Tăng để đàm họa luận thế, kèm theo đó ông có cơ hội kết giao với rất nhiều danh sĩ ở kinh đô đương thời.

Hồng mai và hoa thủy tiên. 1918 – Trần Sư Tăng.

Một con đường nghệ thuật vĩ đại phía trước được mở ra với Tề Bạch Thạch dưới ngón tay chỉ lối của họ Trần.

Danh họa Trần Tử Trang (陈子庄)(1913-1976), một trong những đệ tử xuất sắc của Tề Bạch Thạch sau này đã kể lại trong Thạch hồ họa ngữ lục (石壶画语录) rằng: Tề Bạch Thạch thời trẻ chuyên vẽ mỹ nữ và khá có tiếng tăm, được người địa phương xưng tụng là Tề mỹ nhân (mỹ nhân của họ Tề). Trần Sư Tăng sau khi xem tranh mỹ nữ của Tề Bạch Thạch đã chẳng ngại ngần mà phê phán: “Anh tính tình thô khoáng, chỉ đặt bút xuống là thấy thô kệch rồi, làm sao vẽ nổi mỹ nữ, thôi, tốt nhất là nên học theo lối đại tả ý, mới mong biến cái thô phác thành cái đẹp được”. Trần Sư Tăng sau đó đã khuyên Tề Bạch Thạch học theo khuynh hướng tả ý của Dương Châu bát quái9 đời Thanh, và gần nhất là của Ngô Tuấn Khanh tức họa gia Ngô Xương Thạc lừng danh đương thời, sau đó ông còn mượn bạn bè hai mươi bức tranh của Ngô Xương Thạc để Tề Bạch Thạch lâm tập. 10


Tề Bạch Thạch. Sen đỏ và chuồn chuồn.       

Dưới sự chỉ bảo dẫn dắt của Trần Sư Tăng, Tề Bạch Thạch đã buông hẳn lối cũ, tận chí cải đổi. Trong suốt ba năm, ông bảo vợ khóa trái cửa lại, ngày ngày giam mình trong phòng nghiền ngẫm lâm tập, đến nỗi, vì ít ra sáng mà màu da trở nên nhợt nhạt trắng bệch. Rồi một ngày kia, không phụ công phu khổ luyện của người họa sĩ lão thành, Lâm Cầm Nam (林琴南), một danh sĩ đương thời sau khi xem một bức vẽ quạt của Tề Bạch Thạch đã phải thốt lên: “Nam Ngô Bắc Tề 11, cái đẹp có thể tương sánh rồi”.  
 

Cũng nhờ Trần Sư Tăng mà sự nghiệp nghệ thuật của Tề Bạch Thạch lại thêm một cơ hội chuyển biến to lớn. Đó là vào năm 1922, Trần Sư Tăng được mời sang Đông Kinh để tổ chức một cuộc triển lãm giao lưu giữa giới thư họa hai nước. Lần này không ai khác ngoài Tề Bạch Thạch được Trần Sư Tăng chọn tranh mang sang triển lãm. Ngô Xương Thạc là họa sĩ Trung Quốc kiệt xuất. Điều khiến công chúng tham quan hết sức kinh dị, đó là khi họ nhìn thấy tác phẩm của một họa sĩ vô danh được Trần Sư Tăng đề giá cao hơn tranh của Ngô Xương Thạc, nhất là khi người đó lại được tiến cử bởi một họa gia danh tiếng và đầy uy tín như Trần Sư Tăng? Và thế là người ta đổ xô đến để xem tranh của Tề Bạch Thạch. Chẳng mấy chốc mà toàn bộ số tranh mang đi đã bán hết sạch và cái giá được trả cao gấp hai mươi lần giá tranh hiện đang bán ở Trung Quốc của họ Tề. Thậm chí người Nhật còn ngỏ ý muốn quay một bộ phim cho riêng hai họa gia.

Có thể nói nếu không nhờ có Trần Sư Tăng nhìn ra tài năng và khích lệ truyền cảm hứng thì chúng ta sẽ không thể có một Bạch Thạch lão nhân ”đại biến” trong những năm tháng mà tuổi tác đã không còn là đồng minh của mọi sự đột phá. Từ đó, ông bất chấp mọi sự công kích của tầng lớp họa gia bảo thủ, công thức đương thời, mạnh dạn sáng tạo, đột phá vào chỗ bế tắc của họa đàn cuối Thanh đầu Dân quốc, nơi nuôi dưỡng những tư tưởng họa viện cổ lậu, quẩn quanh trong vòng cô tịch, quay lưng với thực tại. Giữa cái không khí bảo thủ ngột ngạt đó, sự cải đổi của Tề Bạch Thạch như đóa hoa hướng dương nở giữa mây mù, sống động rực rỡ, làm ấm lên cả một vùng xám lạnh tăm tối của trường phái phục cổ.

 

Tề Bạch Thạch. Chim sáo và hoa phù dung. 1917

Tranh của Tề Bạch Thạch toát lên vẻ đẹp riêng có chính là vì được nuôi dưỡng bởi hơi ấm của một trái tim hồn hậu trong trẻo như một đứa trẻ. Bất cứ sự vật gì lọt vào mắt ông cũng được quan sát, nắm bắt tỉ mỉ hình thù đối tượng dưới một nhãn quan dí dỏm tinh nghịch để diễn tả được hình, và sau đó lấy cái màu sắc của nội tâm ra tô vẽ cho hình thù ấy vừa giống ngoại cảnh, vừa giống tâm cảnh, đó cũng chính là mượn sự vật của tạo hóa để biểu hiện cái tinh thần sống nội tại của chính mình vậy. Ông đã thực hiện đúng với lời của danh họa Trương Tảo 14 đời Đường rằng “Ngoại sư tạo hóa, trung đắc tâm nguyên”, nghĩa là bên ngoài học từ thiên nhiên, tôn tự nhiên làm thầy nhưng bên trong lại xuất phát lòng mình, thỏa mãn cái bản chất riêng có của bản thân, dung hợp hai yếu tố khách quan và chủ quan trong tranh để đạt tới cái đích “hình thần kiêm bị”. Nói ra tuy dễ nhưng trong lịch sử hội họa liệu có mấy người đạt được thành tựu đó. Không chỉ kế thừa di huấn của tiền nhân, mà qua thực tiễn quan sát và sáng tạo, Tề Bạch Thạch cũng tự rút ra những điều mà ông cho là cốt tủy của nghệ thuật, những lời đó tuy dung dị, mộc mạc song đã hóa thành bất hủ, được các thế hệ hậu sinh truyền học, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là: “Vẽ tranh vi diệu ở chỗ vừa giống vừa  không giống. Nếu quá giống tức là chiều theo thế tục, mà không giống thì là nhạo báng thế nhân”. Tranh của Tề Bạch Thạch sở dĩ được mọi tầng lớp yêu thích, là do ông đã biết dung hợp một cách tài tình giữa cái thuần phác nhân bản của nghệ thuật dân gian với cái thanh nhã cao thượng của Văn nhân họa, cũng như hòa tan được những đối nghịch tưởng chừng như không thể dung hòa giữa trí tuệ và bản năng, giữa cái thô và cái tế, cái tục và cái nhã, cái cầu kỳ và cái giản đơn…v.v… điển hình trong việc ông đã dám kết hợp giữa “công bút” (lối vẽ tỉ mỉ, tinh vi) với “tả ý” (lối vẽ phóng túng, bay bổng) trong rất nhiều tác phẩm về thảo trùng. Song, theo ông thì tất cả đều phải chuyển hóa, như lời Thạch Đào, một họa gia kiệt xuất cuối Minh đầu Thanh từng nói, đó là: “Bút mực phải tùy theo thời đại” (笔墨当随时代)
——-
Chú thích:
(1) Chu Đạp (1626 – 1705) tên thật là Chu Thống Thác, hiệu Bát Đại sơn nhân, Tuyết Cá, Cá Sơn, Nhân Ốc, Đạo Lãng .v.v.. Họa gia kiệt xuất cuối Minh đầu Thanh, dòng dõi hoàng tộc, hậu duệ của Minh thái tổ Chu Nguyên Chương. Sau khi nhà Minh diệt vong ông xuất gia đầu Phật, sau cải sang đạo sĩ, một trong Thanh sơ tứ họa tăng (bốn nhà sư họa sĩ đầu đời Thanh) bao gồm: Bát Đại sơn nhân, Thạch Đào, Hoằng Nhân, Khôn Tàn. Phong cách sáng tác của ông rất có ảnh hướng với hậu thế.
(2) Bá Nhạc: người thời Xuân Thu, tương truyền có biệt tài xem tướng ngựa. Người đời sau dùng tên ông để chỉ những người có năng lực phát hiện, tiến cử, bồi duỡng những tài năng còn đang ẩn giấu.
(3) Thẩm Châu (1427 – 1509) tự Khải Nam, hiệu Thạch Điền, Bạch Thạch ông, Ngọc Điền Sinh, Hữu Trúc cư chủ nhân… Họa gia kiệt xuất thời Minh, lãnh tụ Ngô môn họa phái, một trong Minh tứ gia (bốn họa gia kiệt xuất triều Minh) bao gồm Thẩm Châu, Văn Chinh Minh, Đường Dần, Cừu Anh.
(4) Thạch Đào (1642 – 1708): hoàng tử nhà Nam Minh, con hoàng đế Minh Nguyên Tông Chu hưởng gia. Họ Chu, tên Nhuợc Cực, người Quế Lâm, Quảng Tây, ông có rất nhiều biệt hiệu như Đại địch tử, Thanh Tương lão nhân, Khổ Qua hòa thượng, Hạt tôn giả… Sau khi nhà Nam Minh diệt vong,  xuất gia lấy pháp hiệu Nguyên Tế. Họa gia kiệt xuất cuối Minh đầu Thanh, một trong Thanh sơ Tứ họa tăng. Các lí luận hội họa và sáng tác của ông có ảnh hưởng rất lớn tới hậu thế .
(5) Ngô Xương Thạc (1844 – 1927): tên Tuấn Khanh, tự là Xương Thạc. Danh họa cuối đời Thanh, lãnh tụ của Hải Thượng họa phái (Hải phái), ông cùng với Bồ Hoa, Hư Cốc, Nhiệm Bá Niên được xưng tụng là Thanh mạt Hải phái tứ đại gia. Giỏi thi văn, thư pháp, triện khắc, đại diện kiệt xuất cuối cùng của Văn nhân họa. Ảnh hưởng của ông bao trùm lên hầu hết Trung Quốc họa thế kỉ 20.
(6) Từ Vị (1521 – 1593): tên là Văn Trường, hiệu Thanh Đằng lão nhân, Thanh Đằng đạo sĩ, Thiên Trì chủ, Thiên Trì sơn nhân, Thiên Trì ngư ẩn… Thư họa gia, văn học gia, hý khúc gia, quân sự gia thời Minh. Bác học đa tài, từng hiến kế cho Hồ Tôn Hiến bắt thủ lĩnh Oa khấu là Từ Hải, Uông trực. Sau bè đảng của Nghiêm tung bị diệt, ông cùng Hồ Tôn Hiến đều bị vạ lây. Hồ Tôn Hiến tự sát chết trong ngục, còn Từ Vị vì lo sợ nên phát điên, chín lần tự sát không chết, sau lại vô tình giết vợ, bị hạ ngục, nhờ bạn bè cứu giúp nên đựợc tha. Cuối đời chết trong nghèo khổ. Ông cùng với Trần Thuần đã đưa bút pháp đại tả ý đến cùng cực của sự biểu hiện, bút mực bôn phóng hào mại, ý thú tung hoành sảng kiện, ảnh hưởng tới hậu thế không thể nói hết.
(7) Trần Thuần (1483 – 1544): tự là Đạo Phục, hiệu Bạch Dương sơn nhân, họa gia kiệt xuất thời Minh, phong cách hoa điểu họa tả ý của ông có ảnh hưởng lớn tới hậu thế, cùng với Từ Vị được gộp xưng là “Bạch dương Thanh đằng”.
(8) Đại tả ý: tên một loại họa pháp tương truyền được khai phá từ đời Đường bởi Vương hợp , sau được Nam Tống Lương khải, Minh đại Từ vị phát triển. Các thế hệ họa gia về sau như Bát Đại sơn nhân, Thạch Đào, Dương Châu bát quái, Hư cốc, Nhiệm Bá Niên, Ngô Xương Thạc, Trần Sư Tăng, Tề Bạch Thạch, Trương Đại Thiên, Phó Bào Thạch… đã đưa đại tả ý trở thành một họa pháp cực thịnh trong Trung Quốc họa. Đặc điểm dễ nhận ra của họa pháp này là bút mực hết sức tự do khoáng đạt, không chú trọng tiểu tiết, đề cao cảm xúc cá nhân.
(9) Dương Châu bát quái: chỉ một nhóm họa gia hoạt động ở đất Dương Châu trong khoảng thời gian từ Khang Hy đến Càn Long đời nhà Thanh. Nhóm này do có phong cách và xu hướng sáng tác khá tương đồng nên được dân gian gọi chung là Bát quái. Thực chất con số này không chỉ dừng lại ở tám người, những họa gia tiêu biểu gồm có: Trịnh Bản Kiều, Kim Nông, Hoàng Thận, La Sính, Cao Tường, Uông Sĩ Thận, Lý Thiện, Lý Phương Ưng, Mẫn Trinh, Biên Thọ Dân, Hoa Nham, Cao Phượng Hàn… Họ đều là những họa sĩ xuất thân Nho gia, một số mắc nghiệp khoa cử lận đận, một số lại bất mãn với quan trường mà từ quan lui về lấy việc bán tranh làm kế sinh nhai. Nhưng tựu trung họ đều có một khí phách ngang tàng, khinh đời ngạo thế, bất chấp quy củ, phản kháng với những tệ đoan của xã hội và cả những lề thói giáo điều hủ lậu trong giới thư họa đương thời. Ảnh hưởng của Dương châu bát quái với hậu thế rất lớn.
(10) Lâm tập: là hình thức học tập thư họa bằng cách sao chép các danh tác của người đi trước. Thông thường đuợc gọi chung là lâm mô. Lâm là đối diện với nguyên tác để chép theo. Mô là để một tờ giấy mỏng không ngấm nước lên nguyên tác để tô theo. Lâm thì thường được ý nhưng mất hình, Mô thì thường được hình nhưng mất ý.
(11) Nam Ngô bắc Tề: Ngô Xương Thạc hoạt động ở Thượng Hải (phía nam), Tề Bạch Thạch hoạt động ở Bắc Kinh (phía bắc) nên gọi xưng là Nam Ngô bắc Tề. Còn một cách gọi khác là Nam Hoàng bắc Tề, ý chỉ danh họa Hoàng Tân Hồng (Chiết Giang) và Tề Bạch Thạch (Bắc Kinh).
(14) Trương Tảo (张璪): họa gia đời Đường. Kế thừa họa pháp nam tông của Vương duy. Sáng tạo ra thủ pháp Phá mặc, ảnh hưởng lớn tới hậu thế.

 

Tác giả