Thời điểm kết thúc ngàn năm Bắc thuộc

Ngày nay, khi hỏi bất kỳ người Việt Nam nào về thời điểm kết thúc ngàn năm Bắc thuộc mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, hầu như câu trả lời chắc chắn sẽ là năm 938. Dấu chấm hết cho một giai đoạn lệ thuộc là chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán. Tuy nhiên, ít người để ý đến việc vì sao các sử gia, các nhà nghiên cứu lịch sử lại CHỌN thời điểm đó, tiêu chí để xác định là gì, và họ chọn thời điểm đó với mục đích gì. Ngoài ra, còn có những thời điểm nào khác đã được đề xuất, với tiêu chí khác, và dĩ nhiên với những mục đích khác? Bài viết này sẽ giới thiệu CÁC mốc thời gian đã từng được đề xuất cũng như thảo luận về những vấn đề có liên quan như đã nêu.

Mô phỏng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.

Giả thuyết 1: năm 938

Đề xuất này có từ khá sớm, ít nhất là từ thế kỷ XV qua cách phân kỳ lịch sử của Ngô Sĩ Liên. Tuy nhiên, Ngô Sĩ Liên chọn năm 939 làm thời điểm đầu tiên của kỷ nguyên độc lập tự chủ, còn năm 938 được chọn làm thời điểm kết thúc ngàn năm Bắc thuộc. Có hai tiêu chí được sử dụng ở đây. Trong đó, CHIẾN THẮNG trước quân đội phương Bắc được dùng để chọn thời điểm kết thúc; xây dựng triều đại được dùng để xác định thời điểm mở đầu1.

Cách phân kỳ của Ngô Sĩ Liên hẳn đã có ảnh hưởng lớn đến phần lớn các sử gia trong nhiều thế kỷ sau. Sách “Lịch sử Việt Nam” (1971) ghi: “Chiến thắng oanh liệt của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng cuối năm 938 kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn nghìn năm. Dân tộc ta đã giành lại được quyền làm chủ đất nước. Một thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc bắt đầu.”2 Giáo trình “Tiến trình lịch sử Việt Nam” (2010) ghi: “Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là cái mốc bản lề của lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt vĩnh viễn nền thống trị hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc.”3 “Dấu chấm cuối cùng là để ở năm 938: bút là giáo gươm, mực là sông Bạch Đằng, theo tôi hợp lý hơn và đẹp hơn.”4 Cách bình luận của GS Trần Quốc Vượng cho thấy ông đang phải lựa chọn giữa các mốc thời điểm khác nhau. Mốc 938 được chọn phải chăng vì nó gắn với một chiến thắng rực rỡ, oanh liệt, có tầm về nghệ thuật quân sự: một trận thủy chiến với sự thông hiểu con triều. Rồi sau đó, cách đánh này còn được dùng lại thời Lê Hoàn chống Tống và Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông: “trận Bạch Đằng lịch sử, vừa xóa sổ cả đạo thủy quân Nam Hán xâm lược, vừa giết chết cả chủ tướng: Thái tử Hoằng Thao”5. Hơn nữa, có thể thấy, từ góc độ rộng lớn hơn, Ngô Quyền đã “trấn diệt thù trong, tiêu diệt giặc ngoài”6. Cách dùng chữ như vậy, hẳn có đối chiếu với lịch sử Việt Nam quãng những năm sáu bảy mươi của thế kỷ XX. Ở đây, chúng ta đã thấy việc nghiên cứu của các nhà sử học đã ít nhiều có sự điều chỉnh của bối cảnh lịch sử Việt Nam hiện đại.

“Nhưng dù sao, với thời điểm năm 938, chúng ta có thể thấy, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, các sử gia và các nhà nghiên cứu lịch sử đã dùng chung một tiêu chí để xác định thời điểm kết thúc ngàn năm Bắc thuộc, ấy là một CHIẾN THẮNG.

Nhưng điểm đáng bàn đến ở đây, chiến thắng Bạch Đằng không phải là chiến thắng đầu tiên của thế kỷ X. Chính vì thế, trước nay đã có một số đề xuất khác, như sẽ trình bày dưới đây.

Giả thuyết 2: năm 931

Ý kiến này được đưa ra bởi hai nhà sử học Nguyễn Diên Niên và Phan Bảo trong bài viết “Dương Đình Nghệ với ba nghìn người giả tử của ngài (Hay ai là người khai sinh nền độc lập dân tộc lần thứ nhất?)”7 Khởi đầu bài viết, các tác giả đã dẫn một đoạn sử liệu như sau:

“Dương Đình Nghệ người Ái Châu, nuôi ba nghìn giả tử, mưu đồ khôi phục Giao Châu. Viên tướng cai quản Giao Châu người Hán là Lí Tiến đã biết, nhưng ăn hối lộ của Nghệ nên làm như không nghe thấy. Năm này (tức năm Tân Mão 931), Đình Nghệ dấy quân bao vây Giao Châu, vua Hán sai Thừa chỉ Trình Bảo sang cứu, chưa đến nơi thành đã nguy ngập. Tiến bỏ trốn về bị vua Hán giết chết. Bảo vây Giao Châu, Đình Nghệ ra đánh, Bảo phải thua và tử trận.”8 Dương Đình Nghệ tự xưng làm Tiết độ sứ, vua Nam Hán “biết chẳng thể tranh với ngài được nữa, đành bái tướng Tiết độ sứ châu Giao”9.

Trong đó, các tác giả đã đưa ra những lý lẽ như sau:

(1) Dương Đình Nghệ đã gây dựng “một tổ chức chính trị bí mật” (ba ngàn giả tử) với mục tiêu khôi phục lại Giao Châu;

(2) Đánh đuổi Thứ sử Lý Tiến về nước, và đánh bại quân tiếp viện Trần Bảo;

(3) Tiếp tục việc tự trị, “trông coi việc ở châu”, “khước từ mọi sự can thiệp từ bên ngoài”.

Có thể thấy, các tác giả vẫn lấy tiêu chí “chiến thắng quân sự” để xác định lại thời điểm kết thúc ngàn năm Bắc thuộc. Điều quan trọng nhất mà các tác giả đưa ra ở đây chính là sự kiện chiến thắng Trần Bảo xảy ra trước chiến thắng Bạch Đằng bảy năm10.

Giả thuyết 3: năm 905

Đây là một thời điểm mà cũng không ít người nghĩ đến, như trăn trở của GS Trần Quốc Vượng11. Suy nghĩ này dựa trên sử liệu trong sách Tư trị thông giám: “năm Ất Sửu, tặng Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ Khúc Thừa Dụ chức Đồng Bình chương sự. [Trước đó] Khúc Thừa Dụ nhân loạn mà chiếm cứ An Nam”12.

Năm 1996, A.B. Poliacop trong cuốn “Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV” đã lần đầu đề xuất thời điểm năm 905 một cách chính thức. Ông đánh giá Khúc Thừa Dụ là người mở ra một thời đại mới. Ông xác định năm 905 “là bước khởi đầu của các triều đại độc lập thực sự đầu tiên”13. Tác giả cho rằng, với sự truyền thừa qua ba đời (Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ)14 và với việc xây dựng hệ thống hành chính và luật lệ mới, họ Khúc thực sự đã chứng tỏ “tinh thần độc lập tự chủ”15, “chấm dứt thời kỳ mất nước”16.

Đến năm 2010, cách phân kỳ này chính thức được nhóm Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh đưa vào giáo trình Đại cương lịch sử Việt Nam. Giáo trình này đã dành riêng một chương để viết về “Thế kỷ X: xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập, tự chủ và thống nhất thời Khúc – Ngô – Đinh – Tiền Lê” (Chương V) thuộc “thời đại phong kiến dân tộc”17. Các tác giả đã viết như sau: “từ năm 905, dù những người đứng đầu đất nước chưa thành lập vương triều và theo xu hướng chung của thời điểm đó, nhận chức Tiết độ sứ, “kỷ nội thuộc Tùy – Đường” như cách nói của người xưa hay đầy đủ hơn là thời Bắc thuộc nói chung đã chấm dứt vĩnh viễn… Nói cách khác, từ năm 905, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới, thời đại độc lập, tự chủ dưới chế độ phong kiến”18.
***
Có thể thấy, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX-XXI, tiêu chí quan trọng nhất được dùng để xác định thời điểm chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc chính là CHIẾN THẮNG trước giặc ngoại xâm. Đây là tiêu chí được đưa ra bởi những học giả theo các giả thuyết 931 và 938. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 được chọn có thể dựa trên những lý do: (1) Đây là một chiến thắng lớn, một chiến thắng đẹp về lịch sử quân sự; (2) Ngô Quyền đã xưng vương ngay sau đó. Lý do để họ bác bỏ thời điểm năm 931 là vì Dương Đình Nghệ thì lại xin “sách phong”19 Tĩnh hải quân Tiết độ sứ từ phương Bắc. Đến thế kỷ XX, tiêu chí CHIẾN THẮNG QUÂN SỰ tiếp tục được đề cao trong bối cảnh Việt Nam đã/ đang phải tiến hành các cuộc chiến tranh trước các thế lực của Pháp, Mỹ và Trung Quốc. Có thể thấy rõ điều này qua bài viết của Văn Lang. Tác giả cho rằng trong thế kỷ X, yếu tố tiên quyết của nền độc lập chính là BẠO LỰC QUÂN SỰ, bạo sự quân sự là “động lực”, là “người đỡ đẻ” của độc lập tự chủ20.

Trong khí đó, Poliacop lưu ý rằng, các “nhà nghiên cứu Việt Nam hiện đại đánh giá quá cao ý nghĩa của chiến thắng trên sông Bạch Đằng trong bối cảnh giành lại nền độc lập”21. Ông khẳng định Dương Đình Nghệ cũng đã làm được một chiến thắng trước đó bảy năm (931). Và như những gì mà nhà nghiên cứu này đưa ra trong giả thuyết 905, dường như ông đã từ chối tiêu chí chiến thắng. Ông viết: năm 905, nhà Đường suy vi, viên Tiết độ sứ Trung Quốc cuối cùng là Độc Cô Tôn bị triệu khỏi Giao Châu, Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ chiếm đóng phủ Tống Bình. Nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ như một việc đã rồi. Năm 907, nhà Đường cũng mất, nhà Hậu Lương lên thay cũng đã công nhận chính quyền của họ Khúc22.

Đến đây, chúng tôi muốn tổng kết lại các tiêu chí mà các nhà nghiên cứu trước đây đã sử dụng.

Có thể thấy, tiêu chí quan trọng nhất nên được dùng ở đây là sự TỰ TRỊ và HỆ THỐNG HÀNH CHÍNH do NGƯỜI BẢN ĐỊA hoặc những người đã bản địa hóa điều hành. Việc giành được chính quyền năm 905 của Khúc Thừa Dụ dường như đã bị quên lãng chỉ vì phương thức khá “hòa bình”23 của Khúc Thừa Dụ và sự thất bại của Khúc Thừa Mỹ vào năm 930. Đây chính là lý do khiến các sử gia có tinh thần quốc gia dân tộc đã không lấy ba đời họ Khúc làm triều đại mở đầu, thay vào đó họ dùng các uyển ngữ “người đặt cơ cở cho nền độc lập”, hoặc đặt vào kỷ “Nam Bắc phân tranh”. Nhiều học giả đã tuyệt đối hóa tiêu chí thắng – bại để ra kết luận cuối cùng. Thế nhưng, ngay cả khi dùng tiêu chí chiến thắng, họ dường như cũng cố gắng bỏ qua sự kiện năm 931 của Dương Đình Nghệ; lý do đưa ra là Dương Đình Nghệ đã nhận sách phong của phương Bắc. Song qua bảng trên, ta thấy việc sách phong của Tĩnh hải quân Tiết độ sứ Ngô Quyền cũng đã bị bỏ qua. Thực chất, người ta đã không biết rằng: việc sách phong này luôn được thực hiện như một đối sách ngoại giao mềm mỏng của tất cả các triều đại trong lịch sử.

Tóm lại, với quan niệm nền độc lập phải được xác quyết bằng một chiến thắng trước giặc ngoại xâm, phần lớn các sử gia Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay đã ấn định năm 938 như là dấu chấm hết cho giai đoạn Bắc thuộc. Tiêu chí chiến thắng bằng bạo lực quân sự dường như là một công cụ thường hằng của các sử gia nhằm phục vụ cho bối cảnh chính trị của Việt Nam – nơi luôn trải qua các cuộc xâm lăng của ngoại quốc.

Nhìn từ một góc độ thuần túy sử học như Poliacop thì nền độc lập đã được hình thành do áp lực quân sự của người bản địa trong bối cảnh đế chế Đại Đường đang ở chặng cuối của sự tan rã. Xu thế phân mảnh của một đế quốc và ý thức tự trị (cát cứ24) của các nhóm thế lực là hai nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự hình thành mười quốc gia thời Ngũ Đại và sự độc lập của mảnh đất phương Nam.
———————-   
1 Tuy nhiên, bài này sẽ chỉ tập trung khảo sát, thảo luận về thời điểm kết thúc. Còn thời điểm khởi đầu xin được trình bày trong một dịp khác.
2 Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. 1971. Lịch sử Việt Nam. (Tập 1). NXB Khoa học Xã hội. H. Tr.141.
3 Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Vũ Minh Giang, Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến, Phạm Xanh. (2010). Tiến trình lịch sử Việt Nam (tb. Lần 10). NXB Giáo dục Việt Nam. HN.
4 Trần Quốc Vượng. 1984. Việt Nam thế kỷ X – văn hóa – văn minh. Trong “Thế kỷ X: những vấn đề lịch sử”. NXB KHXH. H. Tr.222.
5 Văn Lang. 1984. Thế kỷ X – một đặc điểm quân sự và quân sự học. Trong “Thế kỷ X: những vấn đề lịch sử”. NXB KHXH. H. Tr. 189. Hoằng Thao: thực ra là “Hồng Tháo”.
6 Như trên
7 http://vanhoanghean.com.vn (Thứ hai, 21/11/2011 10:12)
8 Tư Mã Quang. 1084. Tư trị thông giám. quyển 277.
9 Âu Dương Tu. 1053.  Tân Ngũ đại sử, quyển 60.
10 Mặt khác, nhiều học giả đã khẳng định tầm ảnh hưởng của họ Dương trong suốt thế kỷ X. Thời đại của Dương Đình Nghệ tồn tại trong sáu năm, cho đến khi ông bị Kiều Công Tiễn sát hại. Nhưng nhìn từ tổng thể, họ Dương đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử thế kỷ X. Con rể ông – Ngô Quyền ngay sau đó đã đem quân từ châu Ái ra diệt Kiều Công Tiễn và làm nên chiến thắng Bạch Đằng. Những con rể khác của họ Ngô như Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn ít nhiều nắm được quyền tối cao đều phải dựa vào mối quan hệ hôn nhân này.
11 Trần Quốc Vượng. 1984. bđd. Tr.222.
12 Nguồn sử liệu này không thấy đề cập trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhưng đã được Việt sử thông giám cương mục đề cập.
13 A.B. Pôliacốp. 1996. Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X- XIV. Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân dịch; Lê Đình Sỹ, Nguyễn Xuân Mạnh, Hán Văn Tâm hiệu đính. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam – NXB Chính trị Quốc gia. H. Tr.22.
14 Quãng thời gian tồn tại hiện có hai giả thuyết: (1) 18 năm (905-923) theo Toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục; (2) 26 năm (905-930) theo Việt sử lược, An Nam chí lược [xem thêm Đỗ Danh Huấn. 2012. Lại bàn đến sử liệu viết về họ Khúc. Trong “Sử học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa”. NXB Thế giới. H. 485- 506].
15 A.B. Pôliacốp. 1996. sđd. Tr. 23.
16 A.B. Pôliacốp. 1996. sđd. Tr.29.
17Đây là một cách phân loại rất khác so với các sử gia truyền thống (như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy), qua các thuật ngữ “Nội kỷ”, “Ngoại kỷ”, xem Phan Huy Lê. 1998. Đại Việt sử ký toàn thư: Tác giả- văn bản – tác phẩm. Trong “Đại Việt sử ký toàn thư”. NXB KHXH. H. Tr.25.
18 Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. (2010). Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1). NXB Giáo dục Việt Nam. Hà Nội. tr.102
19 Sách phong: là chế độ ngoại giao mà các triều đại Trung Hoa công nhận quan hệ với các nước lân bang mà họ coi là phiên quốc bằng cách phong tước cho những người đứng đầu của các nước này. Ví dụ một số tước phong:  An Nam đô hộ phủ, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ hoặc An Nam quốc vương.
20 Văn Lang. 1984. bđd. Tr.192.
21 A.B. Pôliacốp. 1996. sđd. Tr. 28.
22 A.B. Pôliacốp. 1996. sđd. Tr.21-22.
23 Keith Weller Taylor. 1983. The Birth of Vietnam. University of California Press. Berkeley. tr.259.
24 Keith Weller Taylor. 1983. sđd. tr.261.

Tác giả