Aristote – Chính trị học của hạnh phúc

Chỉ trong cộng đồng chính trị, con người mới có hạnh phúc.

Tượng nhà triết học Aristote ở quảng trường Aristotelous, Thessaloniki, Hy Lạp. Nguồn: AdobeStock.

Rốt cuộc, cái tốt cao nhất, mà con người mong muốn và nhà nước phải đáp ứng, là gì ? 

Câu trả lời của Aristote: Cái thiện tối cao, điều tốt đẹp nhất, mục đích cao nhất và ý nghĩa tối thượng của đời sống con người chính là hạnh phúc. Con người mong muốn nhiều cái tốt, nhưng tất cả những cái tốt đó đều nhằm hướng tới cái tốt cao nhất, cái tốt tự thân. Hạnh phúc chính là cái tốt cao nhất này, sau nó không còn cái tốt nào khác. Và hạnh phúc là điều tốt đẹp tự thân, bởi con người muốn hạnh phúc vì chính bản thân hạnh phúc chứ không vì bất kỳ cái gì khác. Điều này làm nên tính chất tối thượng của hạnh phúc. Để hiểu hơn ý tưởng này, cần đối chiếu với quan niệm của những người cho rằng, chẳng hạn, hòa bình là mục đích tối thượng. Aristote, trái lại, xem hòa bình cũng chỉ là một điều kiện, một phương tiện, cho phép con người tổ chức cuộc sống của mình một cách tốt nhất, để thực hiện chức năng người của mình. Do đó, không phải hòa bình, mà hạnh phúc mới là mục đích cao nhất của đời sống.

Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh ý tưởng trung tâm trong lý thuyết của Aristote về hạnh phúc: chỉ trong cộng đồng chính trị, con người mới có hạnh phúc. 

Điều này thoạt nghe có vẻ rất lạ lùng. Nhưng trong nhiều cuốn sách của mình Aristote đã giải thích mối quan hệ giữa nhà nước và hạnh phúc của con người.

Chỉ con người mới có hạnh phúc

Trên cơ sở thừa nhận có nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc, Aristote đưa ra quan niệm riêng của mình; trong cuốn Đạo đức học Nicomaque, ông viết: “Chúng ta không có ý định gán hạnh phúc cho con bò, con ngựa hay bất kỳ con vật nào khác, bởi vì không con vật nào có khả năng tham gia vào một hoạt động thuộc loại này 1. Vì cùng một lý do, hạnh phúc cũng không dành cho trẻ con, bởi tuổi nhỏ chưa cho phép trẻ con biết sử dụng lý trí. […] Quả thực, như chúng ta đã nói, hạnh phúc đòi hỏi đức hạnh hoàn hảo và đời sống hoàn thiện” 2.


Đối với Aristote, hạnh phúc thì không phải là sự hài lòng, sự thỏa mãn, niềm sung sướng hoặc các khoái lạc, do vật chất, thành công, danh tiếng hay vinh quang mang lại. Aristote xem hạnh phúc là mục đích cao nhất mà con người đạt được khi có “đức hạnh hoàn hảo và đời sống hoàn thiện”, và mục đích này chỉ thành tựu cùng với nhà nước.

Như vậy, đối với ông, chỉ con người và chỉ những người trưởng thành mới có hạnh phúc, bởi nó đòi hỏi đức hạnh hoàn hảo và đời sống hoàn thiện, là những thứ mà trẻ em chưa đạt tới được, vì còn hạn chế trong việc sử dụng năng lực lý trí. Và các động vật khác tuyệt đối không có. Một trong những lý do mà Aristote đưa ra để giải thích vì sao các động vật không thể tạo ra nhà nước là chúng không thể có hạnh phúc và không thể chia sẻ hạnh phúc với nhau. Quan niệm này xuất phát từ chỗ Aristote phân biệt giữa hạnh phúc, thú vui và khoái lạc. Ông không phủ nhận rằng con vật cũng có các niềm sướng khoái bản năng. Ông cũng không phủ nhận những niềm vui và lạc thú khác nhau mà con người có thể tận hưởng. Ông thừa nhận tất cả những điều đó nhưng đối với ông, hạnh phúc thì không phải là sự hài lòng, sự thỏa mãn, niềm sung sướng hoặc các khoái lạc, do vật chất, thành công, danh tiếng hay vinh quang mang lại. Aristote xem hạnh phúc là mục đích cao nhất mà con người đạt được khi có “đức hạnh hoàn hảo và đời sống hoàn thiện”, và mục đích này chỉ thành tựu cùng với nhà nước.

Con người tạo ra nhà nước bởi trong bản chất của nó có những yếu tố thúc đẩy nó làm điều này, những yếu tố mà các loài vật khác không có được. Đó là những yếu tố cho phép con người hình thành năng lực trí tuệ và ngôn ngữ. Đối với Aristote, chính nhờ ngôn ngữ và trí tuệ mà con người có những năng lực đặc biệt:

Bức “Cái chết của Socrates”. Họa sĩ Jacques Louis David. 1787.

“Ngôn ngữ của con người dùng để chỉ ra điều lợi, điều hại, và cũng tương tự như thế điều gì là công chính và thế nào là bất công. Đặc biệt hơn nữa, chỉ con người mới có được ý thức về thiện và ác, về công bằng và bất công, và về các đức tính khác nữa. Sự phối hợp các sinh vật có ý thức này tạo nên gia đình và nhà nước” 3.

Chính là cùng với ý thức về thiện và ác, công bằng và bất công… mà con người tạo nên nhà nước và có một đời sống hạnh phúc. Các loài vật khác không có hạnh phúc vì chúng không có ý thức về những điều đó. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn cách Aristote suy nghĩ về chính trị và hạnh phúc.

Vậy hạnh phúc là gì ? Vì sao hạnh phúc lại là mục đích cao nhất, là cái tốt cao nhất đối với con người ?

Ta đọc thấy định nghĩa này của Aristote ở Quyển I, Chương IX của cuốn Đạo đức học Nicomarque: “… hạnh phúc là hoạt động nhất định của linh hồn phù hợp với đức hạnh” 5. Để hiểu được định nghĩa này, một lần nữa phải quay trở lại với quan niệm của Aristote về con người, về bản chất người và chức năng người.


Theo Aristote, con người chỉ hạnh phúc khi ở trong cộng đồng chính trị, bởi nhà nước là loại cộng đồng được tổ chức một cách hợp lý tính, được tổ chức theo các nguyên tắc của lý trí, nghĩa là được tổ chức theo cách thức để mọi người cùng có hạnh phúc.

Aristote phân biệt giữa chức năng làm nghề và chức năng làm người. Một người làm nghề bác sĩ, chẳng hạn, người đó sẽ được xem là thực hiện tốt chức năng bác sĩ nếu nắm vững chuyên môn nghề y và chữa bệnh giỏi, nhưng người ấy không nhất thiết là một người tốt nếu không hoàn thành chức năng người. Người tốt là người thực hiện được các chức năng người của mình. Vậy chức năng người là gì?

Ông giải thích : “…sự tốt đẹp đặc thù của con người là hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh; và, nếu có nhiều loại đức hạnh, thì hoạt động ấy sẽ phù hợp với đức hạnh cao cả nhất và hoàn hảo nhất” 6. Như vậy, sự tốt đẹp đặc thù của con người, điều làm nên chức năng người (trong phân biệt với các loài vật khác), đó là hoạt động của linh hồn phù hợp với các đức hạnh đặc thù cho con người. Khi một người để cho linh hồn hoạt động dưới sự dẫn dắt của đức hạnh chứ không phải dưới sự chi phối của bản năng động vật, thì người đó thực hiện được chức năng người của mình. Đã đến lúc phải tìm hiểu xem linh hồn và đức hạnh có nghĩa là gì trong quan niệm của Aristote.

Hạnh phúc và linh hồn

Cũng như phần lớn các nhà cổ đại, Aristote có sự phân biệt rạch ròi giữa hai phần hồn và xác nơi con người. Khác với Platon, ông cho rằng hồn và xác liên kết hữu cơ với nhau, cái này không thể tồn tại nếu không có cái kia; quan hệ giữa hồn và xác là quan hệ giữa vật chất (xác) và hình thức (hồn), những yếu tố cùng cấu thành một thực thể duy nhất.  Dù vậy, với ông, hồn cũng là nguyên lý của sự sống, và hồn quan trọng hơn thể xác, trong những gì liên quan đến định nghĩa về bản chất người. Cơ thể vật lý là phần động vật của con người, xác nhận rằng nó cũng là động vật như bao động vật khác. Những gì xác lập nên chức năng người nằm ở phần hồn. Linh hồn con người được Aristote chia làm ba loại: thảo hồn, phần mà con người có chung với cây cỏ, thuộc về chức năng sống nơi các sinh vật: giác hồn, phần con người có chung với động vật, vừa là chức năng sống vừa là chức năng cảm giác; và hồn lý tính, chỉ con người mới có, là phần lý trí đảm nhận chức năng suy nghĩ, tư duy khoa học.


Khi hoạt động của linh hồn phù hợp với lý trí thì đức hạnh sẽ được hiện thực hóa, chức năng người được hiện thực hóa và được hoàn thiện. Và lúc đó con người đạt tới trạng thái hạnh phúc. 

Thảo hồn và giác hồn là phần mà con người có chung với mọi sinh vật và động vật, vì vậy, với thảo hồn và giác hồn con người chỉ thực hiện được những chức năng sinh vật và động vật (dinh dưỡng và cảm giác) mà thôi. Chỉ có lý trí, và chỉ cùng với phần lý tính trong linh hồn, mà con người mới làm cho các chức năng người của mình được biểu hiện qua các đức hạnh. Bởi chỉ có lý tính mới giúp con người phân biệt được tốt / xấu, thiện / ác, đúng / sai, công bằng / bất công… như Aristote đã nói trong cuốn Chính trị luận. Chính vì vậy mà “hạnh phúc là hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh”. Cũng chính vì vậy mà không có loài vật nào biết đến hạnh phúc, ngoài loài người ; bởi không có loài vật nào có lý tính, ngoài loài người. Và cũng chính vì vậy mà theo Aristote, con người chỉ hạnh phúc khi ở trong cộng đồng chính trị, bởi nhà nước là loại cộng đồng được tổ chức một cách hợp lý tính, được tổ chức theo các nguyên tắc của lý trí, nghĩa là được tổ chức theo cách thức để mọi người cùng có hạnh phúc.

Hạnh phúc và đức hạnh

“Hạnh phúc là hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh hoàn hảo”. Định nghĩa này, tự nó đã cho thấy Aristote phân biệt hạnh phúc với những thú vui vật chất và khoái lạc thể xác, đồng thời ông cũng phân biệt hạnh phúc với những niềm vui do vinh quang hay thành công mang lại. Đối với ông, đó là những niềm vui đến từ bên ngoài, phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Khi định nghĩa: hạnh phúc là hoạt động của linh hồn… thì Aristote xác định rằng hạnh phúc là một trạng thái nội tâm, nó tồn tại bên trong con người, không phụ thuộc vào các tác động đến từ ngoại cảnh, và do vậy mà, khác với khoái lạc, hạnh phúc có tính bền vững, lâu dài, ổn định và sâu sắc. Người hạnh phúc, theo những tiêu chí của Aristote, có thể luôn hạnh phúc, bất chấp những biến động của môi trường xung quanh, bởi người đó có được những hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh, và hơn thế, phù hợp với đức hạnh hoàn hảo.

Một bức tranh cổ động Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026.

Vậy, đức hạnh, đối với Aristote, có nghĩa là gì? 

Trước hết, cần làm rõ khía cạnh: khái niệm “đức hạnh” (tiếng Hy Lạp cổ là arete) của Aristote không phải là một khái niệm thuộc lĩnh vực luân lý. Người Hy Lạp cổ đại hiểu đức hạnh theo nghĩa: đức hạnh là đặc điểm giúp cho một vật thực hiện tốt nhất chức năng của nó. Do vậy, không riêng gì con người, tất cả mọi vật đều có đức hạnh của chúng. Chẳng hạn, đức hạnh của con dao là: sắc, bền, dễ cầm, những đặc điểm khiến con dao thực hiện tốt chức năng thái, cắt, chặt, chém của nó. Hiểu theo cách này, đức hạnh phù hợp với đặc tính làm nên bản chất tốt của sự vật.

Vậy, đức hạnh của con người là gì? Bản chất và chức năng của con người là gì?

Muốn trả lời câu hỏi này, phải trở lại với triết học tự nhiên của Aristote. Đức hạnh là yếu tố tự nhiên, tiềm ẩn nơi con người, và là yếu tố đặc thù của bản chất người, tức là yếu tố xác định con người là người chứ không phải là một loài vật bất kỳ nào khác. Nhưng khi là yếu tố tự nhiên, đức hạnh chỉ tồn tại ở dạng tiềm tàng. Chỉ khi nào biến đức hạnh từ tiềm năng thành hiện thực thông qua các hoạt động của linh hồn, thì lúc đó con người mới đạt tới bản chất người của mình. Nói theo ngôn ngữ hiện đại của chúng ta, nếu không kích hoạt các đức hạnh và hiện thực hóa chúng, thì con người cũng chỉ là một con vật mà thôi.


“Mô hình chính quyền tốt nhất là một chính quyền trong đó mọi người, bất kể là ai, đều có thể sinh hoạt theo đúng khả năng cao nhất của họ và được sống một đời sống hạnh phúc”. (Aristote)

Aristote giải thích:

“Như vậy, đức hạnh xuất hiện trong chúng ta không phải như là một hệ quả của tự nhiên, cũng không phải là trái tự nhiên ; một cách tự nhiên chúng ta có các yếu tố cơ sở để có được đức hạnh, với điều kiện là ta phải hoàn thiện chúng bằng các thói quen. Hơn nữa, tất cả những gì mà tự nhiên ban cho ta, ta chỉ nhận được các tiềm năng, các khuynh hướng của chúng mà thôi ; chính ta phải biến các khuynh hướng ấy thành hành động. Điều này là hiển nhiên trong những gì liên quan đến các cơ quan cảm giác : bởi không phải qua những cảm nhận của thị giác và thính giác mà ta có hai cơ quan này; trái lại, ta đã có các cơ quan đó và sử dụng chúng; và không phải vì ta sử dụng chúng mà ta có chúng. Ta sẽ có được đức hạnh thông qua thực hành, như những gì xảy ra khi ta thực hành các nghề và các nghệ thuật” 6

Để rõ hơn, ông đưa ra ví dụ cụ thể: một cách tự nhiên, con người có mắt và tai – những cơ quan cảm giác; và con người sử dụng chúng để nhìn và nghe. Hoàn toàn không phải vì con người nhìn và nghe nên nó có được mắt và tai. Nếu không sử dụng mắt và tai thì nó sẽ không nhìn thấy gì hết và không nghe thấy gì hết, nhưng hai cơ quan này thì vẫn có nơi con người, bởi tự nhiên đã ban cho nó. Vấn đề là con người có sử dụng những “dụng cụ” mà tự nhiên ban cho mình hay không. Điều này sẽ làm cơ sở cho các lập luận của Aristote về đức hạnh. Tự nhiên đã ban cho con người những yếu tố cơ sở để có đức hạnh, toàn bộ vấn đề là nó có sử dụng các yếu tố ấy để trở nên có đức hạnh hay không. Nghĩa là, để có được đức hạnh thì phải thực hành, phải hành động. Nếu không thực hành, không hành động, thì đức hạnh mãi mãi chỉ là những yếu tố tiềm năng trong con người mà thôi, nó không trở thành hiện thực. Aristote nhấn mạnh: “chính là bằng việc thực hành sự công bằng, sự tiết độ và sự can đảm mà chúng ta ta trở nên công bằng, tiết độ và can đảm” 7

Vì sao hạnh phúc là hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh ? Ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào điểm này, không bàn sâu và rộng hơn về lý thuyết đức hạnh của Aristote.

Dựa trên định nghĩa: đức hạnh là những đặc điểm nhờ đó con người thực hiện được chức năng người của mình, Aristote lập luận rằng con người chỉ thực hiện được chức năng người của mình khi mà linh hồn của nó hoạt động tốt. Và phần linh hồn đặc thù cho phẩm tính người, đó là phần lý trí của nó. Vì thế, khi hoạt động của linh hồn phù hợp với lý trí thì đức hạnh sẽ được hiện thực hóa, chức năng người được hiện thực hóa và được hoàn thiện. Và lúc đó con người đạt tới trạng thái hạnh phúc. 

Hạnh phúc, như vậy, đối với Aristote, không phải là những xúc cảm nhất thời, không phải là một sự hài lòng nhất thời do được thỏa mãn bởi những ham muốn đối với những cái ở bên ngoài (vật chất, khoái cảm thể xác, danh vọng, vinh quang…). Trái lại, hạnh phúc là một trạng thái bền vững, do nội tâm mang lại. Bởi hạnh phúc là đạt tới cái tốt cao nhất: làm cho đức hạnh trở thành hiện thực, và bằng cách đó, hoàn thiện chức năng đặc thù của con người. Cũng có nghĩa : hạnh phúc là đạt tới mức độ làm người trọn vẹn nhất, bằng việc sử dụng trí tuệ để kiểm soát phần phi lý tính, làm chủ các dục vọng bản năng, và “hành động theo lý trí đúng đắn”. Chính vì đặt tầm quan trọng của chức năng người lên năng lực hành động theo lý trí đúng đắn nên Aristote coi đức hạnh là sự trung dung, và đặc biệt đề cao đức tính thận trọng. 

Để hiểu vì sao đức hạnh là sự trung dung, Aristote lấy ví dụ về đức hạnh can đảm. Can đảm là điểm trung dung giữa hèn nhát và liều lĩnh. Nếu như hèn nhát và liều lĩnh là hai cực đối lập nhau, thì can đảm là phương thức ứng xử nằm ở giữa hai cực đó. Can đảm dĩ nhiên không phải hèn nhát, nhưng nhắm mắt húc đầu vào đá không phải can đảm mà là liều lĩnh. Liều lĩnh là hành động không suy tính, không cân nhắc hậu quả, thiếu sáng suốt, nghĩa là hành động không theo lý trí đúng đắn. 

Người can đảm hành động dưới sự dẫn dắt của lý trí, nếu các phân tích tình thế cho thấy rằng cần phải rút lui để bảo toàn sinh mạng và bảo toàn lực lượng thì sự rút lui hợp lý tính ấy chính là can đảm. Bản thân Aristote, trước tình huống nguy hiểm vào năm 323 TCN, đã lựa chọn rời khỏi Athène để bảo toàn tính mạng, và như ông giải thích, để tránh cho “Athène không phạm lỗi với triết học thêm lần nữa”. Trước đó, năm 399 TCN, các công dân thành quốc này đã phạm lỗi với triết học bằng cách bỏ phiếu tử hình Socrate. Như vậy, việc Aristote đi khỏi Athène là một sự lựa chọn có suy xét, sau những cân nhắc của lý trí sáng suốt và đúng đắn, nhằm tránh một sự liều thân không đáng, vì thế đó không phải là hèn nhát, trái lại, theo quan niệm của ông, đó chính là can đảm. Ngoài ra, xét từ quan niệm của Aristote thì, Socrate không phải liều lĩnh mà là can đảm khi chấp nhận chén thuốc độc và từ chối rời bỏ Athène, bởi đó là một lựa chọn được lý trí cân nhắc và suy xét cẩn thận, như chính Socrate giải thích cho bạn bè và môn đệ của mình, trong cuốn Đối thoại Socratic. Chọn cái chết, trong trường hợp Socrate, do đó, cũng là một giải pháp trung dung vậy. Ta hiểu vì sao Aristote cho rằng lập trường trung dung là biểu hiện của sự hoàn hảo về lý tính.

Ông cũng đánh giá rằng thận trọng là một phẩm chất tuyệt vời của những trí tuệ có khả năng phân định cái gì nên làm và cái gì nên tránh, cái gì là công bằng và cái gì là bất công … , trong những trường hợp cụ thể. Thận trọng tiêu biểu cho đức hạnh của trí tuệ. Người thận trọng, với trí tuệ sáng suốt và lựa chọn hợp lý, sẽ đạt được mục tiêu mà họ theo đuổi và do đó có thể đặt cuộc sống của mình vào tình trạng hạnh phúc bền vững.

Nhà nước và hạnh phúc

Đạo đức học của Aristote là khoa học về hạnh phúc, và đồng thời là khoa học về chính trị. Nói cách khác, đạo đức học là bộ môn nghiên cứu về chính trị và hạnh phúc. Chính trị học cũng nghiên cứu về hạnh phúc, nghiên cứu cả về cái đẹp và cái công chính 8. Mở đầu chương III, Quyển I của cuốn Đạo đức học Nicomaque, Aristote nói rằng cuốn sách này là một luận văn chính trị. Cần phải hiểu những điều này như thế nào? Cần hiểu rằng hạnh phúc gắn liền với đời sống chính trị, và chính trị không tách khỏi đạo đức.

Như các phần trên đã chỉ ra, Aristote xác định hạnh phúc là mục đích của đời sống. Và ông định nghĩa: “nhà nước là một cơ cấu gồm tất cả những công dân hợp lại nhằm đạt tới mục đích của đời sống” 9. Có nghĩa là, con người tập hợp lại để tạo thành nhà nước là để đạt tới mục đích cao nhất mà nó mong muốn trong tư cách người: có được hạnh phúc. Vì thế, nhà nước cũng chính là cái tốt cao nhất mà con người có thể tạo ra khi kết hợp lại với nhau, cùng với nhà nước mà con người có được hạnh phúc.

Chỉ trong cộng đồng chính trị con người mới có hạnh phúc. Bởi nhà nước cung cấp những điều kiện cần thiết để các thành viên của mình hiện thực hóa bản chất người, khai mở và phát triển các năng lực người tiềm tàng ở trong mình: trí tuệ, ngôn ngữ, các đức hạnh, ý thức về công lý, tài năng mọi mặt…

Con người chỉ có được hạnh phúc trong cộng đồng chính trị, vì hạnh phúc có hai đặc điểm: hạnh phúc nội tâm (hạnh phúc bên trong, độc lập với các tác động từ bên ngoài, được quy định bởi bản chất tự nhiên của con người, như đã phân tích), nhưng hạnh phúc chỉ trở thành hạnh phúc khi nó được chia sẻ với người khác. Đấy là lý do để Aristote cho rằng các loài vật không thể tạo ra nhà nước vì “chúng không thể chia sẻ với nhau sự hạnh phúc” 10 và không thể chia sẻ với nhau sự tự do. Con người khác con vật ở chỗ con người có năng lực tạo ra hạnh phúc và có khả năng chia sẻ hạnh phúc với đồng loại của mình. Đấy cũng là lý do để Aristote đề cao tình bạn, ông xem tình bạn như là điều kiện của hạnh phúc. Theo quan niệm của Aristote thì con người không thể hạnh phúc trong trạng thái đơn độc. Hạnh phúc, cũng như tự do, là thứ mà, để có thể hiện diện thực sự, cần phải được chia sẻ với tha nhân, trong một cộng đồng chung. Theo cách này, sống trong nhà nước và sống hạnh phúc là một. Muốn được hạnh phúc, phải sống trong cộng đồng chính trị. Để thấy, đối với Aristote và các triết gia cổ đại, chính trị có ý nghĩa lớn lao như thế nào.

Đấy cũng chính là lý do khiến Aristote đồng nhất hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc quốc gia. Ông cho rằng “hạnh phúc của cả hai giống như nhau” 11 Điều này trở thành tiêu chí để Aristote đánh giá thế nào là một chính quyền tốt: “ Ta thấy hiển nhiên rằng, mô hình chính quyền tốt nhất là một chính quyền trong đó mọi người, bất kể là ai, đều có thể sinh hoạt theo đúng khả năng cao nhất của họ và được sống một đời sống hạnh phúc”12. Hạnh phúc quốc gia đồng nhất với hạnh phúc cá nhân có nghĩa là khi các cá nhân hạnh phúc thì quốc gia mới hạnh phúc, và ngược lại, chỉ khi quốc gia hạnh phúc thì các cá nhân mới có hạnh phúc. Cũng vì thế, nếu bị tước đoạt mất phương diện chính trị, bị loại bỏ vị thế công dân hay bị loại bỏ quyền tham gia các hoạt động của nhà nước, bị đặt ra ngoài đời sống chính trị, thì cũng có nghĩa là con người bị tước đoạt hạnh phúc. Chính là xuất phát từ điểm này trong tư tưởng của Aristote mà ta mới có thể hiểu đầy đủ lời tuyên bố mở đầu Tuyên ngộc độc lập Hoa Kỳ 1776 về quyền mưu cầu hạnh phúc: “Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hóa ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Mưu cầu hạnh phúc không chỉ là quyền của con người cá nhân, mà đó còn là quyền chính trị, và với Aristote thì đó cơ bản là quyền chính trị. Hoặc, diễn đạt từ góc độ khác: chỉ khi nào có đầy đủ các quyền chính trị thì con người mới có thể có hạnh phúc. Nhà nước nào tước đoạt các quyền chính trị của nhân dân thì cũng có nghĩa là đã tước đoạt hạnh phúc của nhân dân; và cũng có nghĩa là nhà nước đó đã ngăn cản các thành viên của mình sống đúng với bản chất người, hoặc dùng lại cách diễn đạt khác của Aristote, ngăn cản họ hoàn thành chức năng người của mình.

Aristote không phủ nhận phương diện vật chất và thể chất trong đời sống con người. Ông nói rõ ràng: “một đời sống tốt nhất cho cá nhân và nhà nước là một đời sống đức hạnh cộng với sự đầy đủ về vật chất và thể chất để thực hành được những hành động tốt” 13. Đây là một quan điểm toàn diện: muốn có được những hành động tốt – tức là đức hạnh tốt, thì con người phải có sức khỏe – tức thể lực tốt, và phải có đủ vật chất để đảm bảo các nhu cầu sinh tồn. Người ta không thể sống tốt nếu nghèo khổ, thiếu thốn, hay ốm đau, bệnh tật. Tuy nhiên, đối với Aristote, trong các phương diện này, tinh thần là yếu tố quan trọng nhất: “ta phải đồng ý là tình trạng tốt nhất của tâm hồn cũng phải cao hơn tình trạng tốt nhất của vật chất hay thể chất. Tóm lại, vì tinh thần mà người ta cần đến vật chất và thể chất, và người khôn nên chọn những gì làm lợi cho tinh thần, chứ không chọn những gì làm lợi cho vật chất hay thể chất mà có hại đến tinh thần” 14.

Tóm lại, Aristote gắn hạnh phúc với sự phát triển đầy đủ và sự thăng hoa về mặt tinh thần của công dân: “hạnh phúc là điều tốt đẹp cao nhất, bởi vì đó là đức hạnh đã được thể hiện và hoàn chỉnh qua tu tập” 15. Hạnh phúc là niềm vui bền vững mà một quốc gia và các công dân của nó thụ hưởng khi đạt tới chỗ hiện thực hóa và hoàn thiện bản chất người nơi mỗi thành viên và cho cả cộng đồng, thông qua các hành động có khả năng làm hiển lộ các đức hạnh tiềm tàng (thận trọng, công chính, dũng cảm, khôn ngoan…). Đối với Aristote, đó là niềm vui mang tính người cao nhất, niềm vui nhân bản nhất. Theo cách ấy, ông cắt nghĩa vì sao hạnh phúc là cái tốt đẹp nhất, là mục đích cao nhất, mục đích tối hậu của đời người, vì sao con người muốn hạnh phúc vì chính hạnh phúc chứ không vì một cái gì khác nữa. Hạnh phúc, hiểu theo cách này, quả thực không dễ đạt tới. Và làm người, quả là không dễ dàng, chưa bao giờ dễ dàng.

Sau những thảm họa kinh hoàng mà các nhà nước gây ra cho nhân loại vào nửa đầu thế kỷ XX, Hannah Arendt đã quay trở lại tìm kiếm nơi các triết gia cổ đại những tư tưởng đẹp đẽ và cao quý về chính trị. Bà mong rằng điều đó sẽ giúp xác lập lại ý nghĩa của chính trị, những ý nghĩa mà, vào thời của bà, đã bị hủy hoại bởi các chế độ phản nhân văn, đặc biệt là các chủ nghĩa toàn trị. Trên cơ sở này Arendt viết câu nổi tiếng: “Lý do hiện hữu (raison d’être) của chính trị là tự do, và lĩnh vực kinh nghiệm của nó là hành động” 16

Giờ đây, trong bối cảnh nhân loại đang phải đối diện với vô số các mối đe dọa mang tính hủy diệt, hơn bao giờ hết, những phương diện nhân văn trong tư tưởng chính trị của Aristote cần được tìm hiểu một cách thấu đáo và cần được ứng dụng, để làm cho cuộc sống tốt đẹp trở lại.□

Sài Gòn, 7/2/2025

————————-

TS. Văn học và Triết học Nguyễn Thị Từ Huy

Chú thích

1. Loại hoạt động mà Aristote nói đến ở đây là “hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh”. Chúng tôi sẽ đề cập đến ý này ở đoạn sau của bài.

2. Aristote, Éthique à Nicomaque, Flammarion, Paris, 1992, tr.38.

3. Aristote, Chính trị luận, Nông Duy Trường dịch, Alphabooks & Nxb Thế giới, 2013, tr.47.

4. Éthique à Nicomaque, sđd, tr.37.

5. Éthique à Nicomaque, sđd, tr.33

6. Éthique à Nicomaque, sđd, tr.51.

7. Éthique à Nicomaque, sđd, tr.52.

8. Xem Éthique à Nicomaque, sđd, tr.23.

9. Chính trị luận, sđd, tr. 149.

10.Chính trị luận, sđd, tr. 171.

11. Như trên, tr.355.

12. Như trên, tr.356

13. Như trên, tr.355.

14. Như trên, tr.354.

15.  Như trên, tr.373.

16. Hannah Arendt, Giữa quá khứ và tương lai, Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Social Life & Nxb Tri thức, 2020, tr.215.

Bài đăng Tia Sáng số 4/2025

Tác giả

(Visited 211 times, 2 visits today)