Cải thiện chất lượng không khí: Bài học của Trung Quốc

Nhận thức rõ tác hại lâu dài đến phát triển bền vững, Trung Quốc từ trung ương đến địa phương đã đề ra và theo đuổi những chính sách dài hạn nhằm giảm ô nhiễm không khí.

Khối mù kéo dài 8 ngày liên trong tháng 12/2016 ở quảng trường Thiên An Môn. Khối mù xảy ra vì hàm lượng bụi mịn rất cao trong không khí do đốt than nhiều về mùa đông và không khí không phát tán được trong điều kiện cao áp Siberia ngự trị lớp khí quyển gần mặt đất (Nguồn: Hepeng Jia and Ling Wang, special to C&EN, January 23, 2017/A version of this story appeared in Volume 95, Issue 4).

Trung Quốc đất rộng, người đông, kinh tế phát triển đôi khi tiêu thụ năng lượng và nhiên liệu tăng nhanh nhất thế giới trong những thập kỷ gần đây. Đứng thứ hai thế giới về tổng sản phẩm nội địa, Trung Quốc gần đây đã soán ngôi đầu về phát thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính (chiếm 27% tổng phát thải toàn cầu) cũng như các khí ô nhiễm khác. Chẳng những tổng lượng phát thải mà hàm lượng các khí và sol khí ô nhiễm ở rất nhiều thành phố lớn của Trung Quốc cũng vào loại cao nhất thế giới.

Ô nhiễm không khí cao còn do những điều kiện tự nhiên kết hợp với nhau. Những đô thị lớn nằm sâu trong lục địa, không khí khô, rất ít mưa, một thành phố ô nhiễm như Tây An, thủ phủ Thiểm Tây, lượng mưa hằng năm chưa đầy 700 mm. Các đại đô thị Trung Quốc luôn chịu tác động của cao áp Siberia nằm sát ngay phía Bắc và thường xuyên di chuyển Bắc – Nam về mùa đông. Nhiều nơi bị ảnh hưởng bởi bão bụi từ các vùng sa mạc ở Tây Bắc về mùa xuân. Tình trạng khối mù dày đặc kéo dài nhiều ngày về mùa đông thể hiện rõ nhất mức độ ô nhiễm không khí trầm trọng ở Trung Quốc dưới tác động của cao áp Siberia.

Vào những năm đầu thế kỷ XXI khi kinh tế Trung Quốc bắt đầu bứt phá, hàm lượng trong 24h của PM2.5 ở nhiều đại đô thị thường vượt quá 100 μg/m³. Chính sách tăng trưởng trước hết có thể là nguyên nhân thúc đẩy ô nhiễm không khí gia tăng. Nhưng tác động không bền vững và sức khỏe cộng đồng bị tác hại đến ngày càng lộ rõ, tạo nên áp lực thay đổi chính sách, khiến ô nhiễm không khí bắt đầu đảo chiều từ sau năm 2010.

Thế vận hội mùa hè 2008 được tổ chức ở Bắc Kinh đánh dấu một điểm mốc đáng nhớ. Một bầu không khí trong lành chẳng những cần thiết vì sức khỏe của các vận động viên, mà còn là điều kiện tiên quyết để tổ chức rất nhiều môn thi đấu đòi hỏi tầm nhìn trong không trung. Phải giảm ô nhiễm không khí, vì chính bụi mịn là thủ phạm hạn chế tầm nhìn. Các nhà máy đốt than và nhiều tuyến đường ở Bắc Kinh phải ngừng hoạt động. Các biện pháp hạn chế phát thải cũng được thực hiện cả ở nhiều khu vực rộng lớn bao quanh thủ đô ở Hà Nam và Thiên Tân.

Nhưng đó chỉ là những chính sách nhất thời. Nhận thức rõ tác hại lâu dài đến phát triển bền vững, chính quyền, từ Trung ương đến địa phương, đã đề ra và theo đuổi những chính sách dài hạn nhằm giảm ô nhiễm không khí. Năm 2012, Chính phủ đã xem xét lại tiêu chuẩn chất lượng không khí và đưa PM2.5 vào tiêu chuẩn cùng với PM2.5, từ đó cả hai nằm trong quy trình quan trắc thường xuyên.

Năm 2013, Trung Quốc đã đề ra Chương trình hành động quốc gia về kiểm soát ô nhiễm không khí. Chương trình đặt mục tiêu cắt giảm 20%, 25% và 15% hàm lượng PM2.5 tương ứng ở các vùng Bắc Kinh – Thiên Tân – Hà Bắc, lưu vực sông Dương Tử và lưu vực sông Ngọc Giang. Chính phủ đã chi ra hàng tỷ nhân dân tệ để thực hiện các giải pháp trong chương trình hành động này.

Các địa phương như Nam Kinh và Giang Tô cũng đề ra chương trình hành động quyết liệt và theo đuổi những giải pháp chưa từng có. Các địa phương này đã không ngần ngại tái cấu trúc cơ cấu kinh tế và hệ thống hạ tầng, tái cấu trúc công nghiệp và nguồn năng lượng, phát triển giao thông xanh, kiểm soát chặt chẽ bụi lơ lửng và phát thải từ nông nghiệp.

Cắt giảm ô nhiễm phải tập trung vào hai nguồn phát thải chủ lực từ giao thông đô thị và khói bụi do đốt than. Phát thải từ giao thông đóng góp phần lớn vào ô nhiễm không khí do CO, NOₓ, carbon hữu cơ và bụi ở các kích thước khác nhau tại các đô thị Trung Quốc. Lượng xe cơ giới đường dài tăng từ 6 triệu năm 1983 lên 253 triệu năm 2019. Hạn chế phát thải xe cơ giới chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn khí thải. Năm 2021, chuẩn EURO-6 đã được tiến tới toàn quốc với tất cả các phương tiện cơ giới.

Than đá vẫn là được sử dụng rộng rãi để sản sinh điện năng trên toàn thế giới, Trung Quốc cũng không ngoại lệ. Cắt giảm phát thải ô nhiễm từ đốt than bằng các công nghệ nâng cao hiệu quả sử dụng than là một giải pháp mà Trung Quốc, cũng như nhiều quốc gia khác, phát triển trong nhiều thập kỷ gần đây trước sức ép cắt giảm khí nhà kính cùng như nhiều khí ô nhiễm khác như SO2, NOₓ, Hg. Giải pháp cơ bản là nâng cao nhiệt độ và áp suất hơi nước vào tua bin. Các công nghệ cũ chỉ đạt hiệu suất sử dụng khoảng 34%, tính theo năng lượng sản sinh trên nhiệt năng tiêu thụ. Trong những năm gần đây, với những tiến bộ về vật liệu, các công nghệ mới được nhiều quốc gia tiên tiến như Mỹ, Trung Quốc, Đan Mạch… phát triển bảo đảm nhiệt độ và áp suất hơi lên đến 600°C và 275 bar, cao hơn điểm tới hạn, gọi là công nghệ sinh hơi trên tới hạn. General Atomic ở Mỹ và các hãng ở Đan Mạch phát triển công nghệ sinh hơi trên tới hạn đã nâng hiệu suất sử dụng than lên 45% trong khi lượng phát thải sulfur, ni tơ, xỉ than, CO2 ít hơn tương ứng 50%, 80%, 70% và 17%. Công nghệ sinh hơi siêu tới hạn (ultra super critical) hiện rất phổ biến còn đạt đến những thông số hơi cao hơn nữa.

Nghiên cứu khoa học về môi trường khí đóng vai trò quan trọng trong số những giải pháp cải thiện chất lượng không khí. Về mặt này, Trung Quốc có bước tiến vượt bậc do có đầu tư thích đáng trong xây dựng những cơ sở nghiên cứu hiện đại và một đội ngũ đông đảo thu hút các nhà khoa học người Hoa từ các nước tiên tiến. Số lượng công trình nghiên cứu về chất lượng không khí hiện đang áp đảo trên các tạp chí quốc tế.

Chương trình hành động quốc gia đã mang lại kết quả khả quan. Chẳng hạn ở Nam Kinh, nhờ có chương trình hành động quyết liệt mà hàm lượng PM2.5 năm 2016 đã giảm bớt 20% so với 2013. Cắt giảm phát thải từ giao thông đô thị và công nghiệp mang lại hiệu quả rõ rệt, song phát thải do đốt than và do khói bụi lan đến từ các tỉnh miền Bắc lại có phần tăng lên, theo kết quả nghiên cứu của một nhóm 20 đồng tác giả công bố năm 2018 trên tạp  chí Atmospheric Environment. (https://doi.org/10.1016/j.atmosenv.2018.10.023). Hàm lượng PM2.5 có giảm xuống, song trung bình năm vẫn ở mức gần 90 μg/m³, rất không tốt cho sức khỏe và gấp chín lần khuyến cáo của WHO.

Những giải pháp hành chính, thậm chí của nhà nước Trung Quốc, xem ra chỉ có tác dụng nhất thời, chưa thể thay thế cho lời giải toàn cục bảo đảm một nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Ô nhiễm không khí phải được xem như số hạng quan trọng trong phương trình phát triển có khả năng cân bằng lại các số hạng khác ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế thuần túy.

Nhưng đại dịch COVID-19 bắt nguồn từ Vũ Hán, Trung Quốc hồi cuối năm 2019 và lan rộng ra cả nước cho đến tận 2022, lại phát đi những tín hiệu cho thấy thế mạnh của nhà nước trong khống chế đại dịch kèm theo những hậu quả về ô nhiễm môi trường. Lockdown triền miên bắt buộc ở những thành phố lớn trong chính sách covid-zero, ảnh hưởng trực tiếp đến giao thông đô thị, một trong những nguồn phát thải chủ lực gây ô nhiễm không khí. Đồng thời, với công cuộc chuyển đổi ngoạn mục sang năng lượng tái tạo, phát thải CO2 và các khí ô nhiễm đã bắt đầu suy giảm mạnh.

Những gì đang xảy ra ở Trung Quốc, một đất nước tiêu thụ năng lượng và phát thải ô nhiễm không khí hàng đầu thế giới, chứng tỏ một cuộc cách mạng xanh toàn diện đang bắt đầu trong vài năm gần đây.□

Bài đăng Tia Sáng số 5/2025

Tác giả

(Visited 179 times, 2 visits today)