Chính sách “nhất quán” đầy mâu thuẫn của Trung Quốc trên Biển Đông Nam Á
Điều nhất quán duy nhất trong chính sách đối ngoại trên Biển Đông Nam Á của Trung Quốc chính là sự thiếu nhất quán và thiếu chiến lược rõ rệt.
Trung Quốc luôn sử dụng một điệp khúc phổ biến về cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp lãnh thổ và hàng hải trên Biển Đông Nam Á là phải thông qua công cụ của chính sách đối ngoại, cụ thể là bằng con đường song phương. Đây là lời giải thích của Trung Quốc về việc từ chối cùng Philippines tham gia Tòa án Trọng tài Thường trực. Tương tự như vậy, đây là lý do để Trung Quốc cố tình kéo dài thời gian quyết định Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông với ASEAN. Vậy, phải chăng chính sách đối ngoại nhất quán của Trung Quốc trên Biển Đông Nam Á là chính sách song phương?
Không phải thế. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thực tế rất khác với những gì mà họ đã đề ra. Chính sách này hoàn toàn không nhất quán mà bao gồm cả những yếu tố đa phương, song phương, và (gần đây nhất) là đơn phương, tóm lại là đã đạt đến mức độ thất thường không ai hiểu nổi.
Trong bối cảnh đa phương, Trung Quốc đã từng chứng minh rằng nó sẵn sàng thừa nhận các cam kết có tính ràng buộc lẫn không ràng buộc mặc dù nó hoàn toàn không có ý định tuân thủ. Năm 1996, Trung Quốc đã ký vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), nhưng vẫn tiếp tục khẳng định các yêu sách về chủ quyền hàng hải hoàn toàn không phù hợp với công ước này. Trong phạm vi các cam kết không ràng buộc, Trung Quốc là một bên tham gia Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông Nam Á (DOC). Tuy nhiên,thông qua các hành vi quấy rối liên tục của các tàu Trung Quốc trong vùng biển quốc tế, hành động leo thang tại bãi đá ngầm Scarborough vào năm 2012, và việc tham gia vào các dự án cải tạo đất trong quần đảo Trường Sa vào năm 2014, quốc gia này đã trắng trợn bỏ qua các cam kết chính trị của mình để lờ đi không thực hiện DOC.
Tương tự như vậy, sự tuân thủ các cam kết song phương của Trung Quốc, vốn là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của nước này trên Biển Đông Nam Á, cũng đầy tính lấn át. Vào đầu tháng Năm, Trung Quốc đã đơn phương chuyển giàn khoan dầu Hải Dương -981 của Tổng Công ty dầu khí (CNOOC) vào vùng biển tranh chấp ngoài khơi bờ biển Việt Nam và trong vùng lân cận quanh quần đảo Hoàng Sa. Hành động này đã được thực hiện bất chấp thỏa thuận song phương năm 2011 giữa Trung Quốc và Việt Nam về “các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề liên quan đến vùng biển”, trong đó cả hai quốc gia đã đồng ý giải quyết tranh chấp “thông qua đàm phán hữu nghị và tham vấn.” Tương tự như vậy , vào năm 2012, Trung Quốc đơn phương vi phạm những cam kết về phía mình trong một cuộc đàm phán song phương với Philippines mà qua đó cả hai bên đều phải rút tàu của mình về sau trận đụng độ bất phân thắng bại tại bãi đá ngầm Scarborough. Nói cách khác, cho dù các quốc gia có đồng ý với yêu cầu của Trung Quốc để áp dụng cơ chế song phương thay vì đa phương hoặc trọng tài thì cuối cùng họ cũng chỉ đạt được kết quả giống hệt như nếu họ chống lại các yêu sách của Trung Quốc ngay từ đầu – tức là, sẽ vẫn phải chấp nhận những hành động đơn phương từ phía Trung Quốc.
Có thể rút ra một kết luận khi xem xét việc thực hành chính sách đối ngoại trên Biển Đông Nam Á của Trung Quốc. Kết luận đó là: điều nhất quán duy nhất trong chính sách của nước này chính là sự thiếu nhất quán và thiếu chiến lược rõ rệt của nó. Những mâu thuẫn nói trên này không chỉ gây nghi ngờ về thiện chí của Trung Quốc trong việc đàm phán và diễn giải các thỏa thuận quốc tế mang tính ràng buộc và không ràng buộc, mà còn tạo ra mối nghi ngờ rằng với những sự thiếu nhất quán như vậy từ Trung Quốc, liệu có thể có sự ổn định và hợp tác trong khu vực hay chăng?
Không phải thế. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thực tế rất khác với những gì mà họ đã đề ra. Chính sách này hoàn toàn không nhất quán mà bao gồm cả những yếu tố đa phương, song phương, và (gần đây nhất) là đơn phương, tóm lại là đã đạt đến mức độ thất thường không ai hiểu nổi.
Trong bối cảnh đa phương, Trung Quốc đã từng chứng minh rằng nó sẵn sàng thừa nhận các cam kết có tính ràng buộc lẫn không ràng buộc mặc dù nó hoàn toàn không có ý định tuân thủ. Năm 1996, Trung Quốc đã ký vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), nhưng vẫn tiếp tục khẳng định các yêu sách về chủ quyền hàng hải hoàn toàn không phù hợp với công ước này. Trong phạm vi các cam kết không ràng buộc, Trung Quốc là một bên tham gia Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông Nam Á (DOC). Tuy nhiên,thông qua các hành vi quấy rối liên tục của các tàu Trung Quốc trong vùng biển quốc tế, hành động leo thang tại bãi đá ngầm Scarborough vào năm 2012, và việc tham gia vào các dự án cải tạo đất trong quần đảo Trường Sa vào năm 2014, quốc gia này đã trắng trợn bỏ qua các cam kết chính trị của mình để lờ đi không thực hiện DOC.
Tương tự như vậy, sự tuân thủ các cam kết song phương của Trung Quốc, vốn là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của nước này trên Biển Đông Nam Á, cũng đầy tính lấn át. Vào đầu tháng Năm, Trung Quốc đã đơn phương chuyển giàn khoan dầu Hải Dương -981 của Tổng Công ty dầu khí (CNOOC) vào vùng biển tranh chấp ngoài khơi bờ biển Việt Nam và trong vùng lân cận quanh quần đảo Hoàng Sa. Hành động này đã được thực hiện bất chấp thỏa thuận song phương năm 2011 giữa Trung Quốc và Việt Nam về “các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề liên quan đến vùng biển”, trong đó cả hai quốc gia đã đồng ý giải quyết tranh chấp “thông qua đàm phán hữu nghị và tham vấn.” Tương tự như vậy , vào năm 2012, Trung Quốc đơn phương vi phạm những cam kết về phía mình trong một cuộc đàm phán song phương với Philippines mà qua đó cả hai bên đều phải rút tàu của mình về sau trận đụng độ bất phân thắng bại tại bãi đá ngầm Scarborough. Nói cách khác, cho dù các quốc gia có đồng ý với yêu cầu của Trung Quốc để áp dụng cơ chế song phương thay vì đa phương hoặc trọng tài thì cuối cùng họ cũng chỉ đạt được kết quả giống hệt như nếu họ chống lại các yêu sách của Trung Quốc ngay từ đầu – tức là, sẽ vẫn phải chấp nhận những hành động đơn phương từ phía Trung Quốc.
Có thể rút ra một kết luận khi xem xét việc thực hành chính sách đối ngoại trên Biển Đông Nam Á của Trung Quốc. Kết luận đó là: điều nhất quán duy nhất trong chính sách của nước này chính là sự thiếu nhất quán và thiếu chiến lược rõ rệt của nó. Những mâu thuẫn nói trên này không chỉ gây nghi ngờ về thiện chí của Trung Quốc trong việc đàm phán và diễn giải các thỏa thuận quốc tế mang tính ràng buộc và không ràng buộc, mà còn tạo ra mối nghi ngờ rằng với những sự thiếu nhất quán như vậy từ Trung Quốc, liệu có thể có sự ổn định và hợp tác trong khu vực hay chăng?
—-
Ryan Santicola là một cố vấn quân pháp (judge advocate) trong Hải quân Hoa Kỳ . Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng hoặc Bộ của Hải quân Mỹ.
Phương Anh dịch
Nguồn:
http://thediplomat.com/2014/05/chinas-consistently-inconsistent-south-china-sea-policy/
(Visited 4 times, 1 visits today)