CSR –  Nên bắt buộc hay tự nguyện? 

Trong một xã hội mà các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và quyền con người nhằm hướng tới sự phát triển bền vững, việc thực hiện CSR tại Việt Nam nên được quy định như một nghĩa vụ bắt buộc về mặt pháp lý, hay chỉ nên dừng lại ở mức tự nguyện?

Kim tự tháp CSR do Caroll đưa ra năm 1979.

Kì vọng của xã hội đối với doanh nghiệp

Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) do Caroll đưa ra lần đầu vào năm 1979 và giờ đây vẫn được nhắc đến rộng rãi: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm các khía cạnh về kinh tế, pháp lý, đạo đức và các kỳ vọng (sẽ được thực hiện một cách tự nguyện) mà xã hội mong đợi từ các tổ chức kinh tế tại một thời điểm nhất định”. Định nghĩa này đi kèm với một mô hình “kim tự tháp”, trong đó chia trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thành bốn phần riêng biệt có mức độ quan trọng thấp dần từ đáy tháp đến đỉnh tháp: trách nhiệm kinh tế – tạo ra của cải vật chất cho xã hội và lợi nhuận cho những nhà đầu tư có vai trò quan trọng nhất, mang tính nền tảng. Kế tiếp đó là trách nhiệm pháp lý, theo đó doanh nghiệp phải tuân thủ quy định của pháp luật và sản phẩm, hàng hóa phải đạt tiêu chuẩn tối thiểu nhà nước quy định. Tác giả của kim tự tháp nhấn mạnh hai trách nhiệm đầu tiên này là “yêu cầu”, “đòi hỏi” của xã hội với doanh nghiệp trong khi đó, hai trách nhiệm còn lại – trách nhiệm đạo đức và từ thiện chỉ là “mong muốn”, “kì vọng” từ phía xã hội, thường được cho là ít quan trọng hơn. 

Dù có nhiều cách diễn giải để phù hợp với xã hội ngày nay, kim tự tháp của Caroll vẫn có những điểm yếu nhất định. Bốn khía cạnh trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không nên chỉ là bốn phần riêng biệt mà doanh nghiệp có thể “thực hiện lần lượt” từ đáy tháp đến đỉnh tháp mà giờ đây chúng liên đới với nhau và các doanh nghiệp buộc phải cân nhắc triển khai đồng thời ở mọi thời điểm. Hơn nữa, có một vài khía cạnh quan trọng trong trách nhiệm “đạo đức” và “từ thiện” cần phải gọi tên rành mạch hơn. Xã hội và thị trường giờ đây đặt nhiều kỳ vọng và yêu cầu đối với doanh nghiệp hơn những năm 1980. Ủy ban châu Âu (EC) định nghĩa lại CSR là “trách nhiệm của doanh nghiệp đối với tác động của họ với xã hội để hoàn thành đầy đủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, họ nên có một quy trình lồng ghép các mối quan tâm về xã hội, môi trường, đạo đức, nhân quyền và người tiêu dùng vào các mối quan tâm của họ trong hoạt động kinh doanh và chiến lược cốt lõi.” Với định nghĩa này, có thể hiểu, hành xử “có đạo đức” phải được gắn liền với mọi tế bào của doanh nghiệp. 


Pháp luật Việt Nam hiện hành mới chỉ quy định CSR ở một số khía cạnh tối thiểu, còn nhiều nội dung vẫn để ngỏ hoặc chưa được chú trọng đúng mức, trong khi yêu cầu hội nhập toàn cầu ngày càng đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn về trách nhiệm xã hội và môi trường từ phía doanh nghiệp.

Các tổ chức quốc tế lớn đã không ngừng vận động để trách nhiệm xã hội được tích hợp vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong vài thập kỷ qua. Chẳng hạn như: Bộ nguyên tắc Hướng dẫn về Kinh doanh và Quyền con người của Liên Hợp Quốc, trong đó quy định rằng các tập đoàn phải tôn trọng nhân quyền (không chỉ trong vận hành nội bộ mà trong tất cả các mối quan hệ kinh doanh khác như trong chuỗi cung ứng, trong tác động tới môi trường…); Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cũng đưa ra các nguyên tắc về tương tác với công đoàn, bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, chống tham nhũng đối với các doanh nghiệp đa quốc gia, phù hợp với pháp luật hiện hành và các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận; Tổ chức Lao động Quốc tế cũng đưa ra các tiêu chuẩn xã hội tối thiểu để thúc đẩy cơ hội làm việc cho phụ nữ và nam giới trong môi trường tự do, bình đẳng, an toàn và được bảo vệ nhân phẩm mà tất cả các tổ chức, bất kể có kinh doanh hay không, đều cần tuân thủ. 

Tuy những tiêu chuẩn và nguyên tắc này được cho là thiết yếu, là cốt lõi trong hoạt động kinh doanh để đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người nhưng chúng chỉ là “luật mềm”, không có giá trị ràng buộc đối với doanh nghiệp. Điều này cũng dẫn đến những tranh cãi đáng kể trong cách hiểu cơ bản nhất về CSR, đó là liệu CSR chỉ đề cập đến hành vi tự nguyện hay chính bản thân CSR cũng cần phải bao gồm việc tuân thủ các quy định của chính phủ?

CSR ở Việt Nam: nửa bắt buộc, nửa không

Hiện nay, một số văn bản pháp luật cốt lõi của Việt Nam có tham gia điều chỉnh một số khía cạnh cơ bản của CSR bao gồm Luật Doanh nghiệp 2020 quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội; Bộ luật Lao động 2019 quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động (doanh nghiệp phải đảm bảo tiền lương, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động an toàn cho người lao động; cấm phân biệt đối xử, lao động cưỡng bức, quấy rối tình dục); Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010; Luật Bảo vệ môi trường 2020 (doanh nghiệp phải đánh giá tác động môi trường, có hệ thống xử lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm, doanh nghiệp gây ô nhiễm có thể bị xử phạt, đình chỉ hoạt động), v.v. 

Tuy nhiên, còn nhiều khía cạnh quan trọng của CSR vẫn chưa được quy định rõ ràng hoặc chưa được chú trọng trong luật của Việt Nam. Ví dụ, chưa có luật nào yêu cầu doanh nghiệp có kế hoạch giám sát rủi ro xã hội – môi trường trong chuỗi cung ứng của mình, đảm bảo đối tác trong nước và quốc tế của mình hành xử có trách nhiệm; hay dù có quy định chung trong luật bình đẳng giới nhưng việc tích hợp các tiêu chuẩn về bình đẳng giới vào các hoạt động doanh nghiệp không bắt buộc, cũng không có tiêu chí đo lường cụ thể; hay hiện các yêu cầu về minh bạch và quản trị công ty chỉ hướng đến doanh nghiệp đại chúng, và cũng chỉ ở mức cơ bản; hoặc Việt Nam không yêu cầu các doanh nghiệp phải đóng góp lại cho cộng đồng như hỗ trợ giáo dục, y tế, phát triển vùng sâu vùng xa. 


Việt Nam đang đề ra mục tiêu hướng tới Net-zero tới năm 2050, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc nên việc thực hiện CSR bắt buộc (như báo cáo tác động xã hội, phát triển bền vững, minh bạch hóa chuỗi cung ứng) là cần thiết.

Thông tư 96/2020/TT-BTC quy định bắt buộc các công ty phải công bố báo cáo về phát triển bền vững, bao gồm các thông tin về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) – là một trong những chính sách bao trùm nhất trong việc thực thi CSR ở Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, chính sách này chỉ nhắm đến các công ty niêm yết còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ – chiếm đại đa số trong các doanh nghiệp Việt Nam thì được miễn nộp báo cáo này. Trong một thống kê tại diễn đàn Doanh nghiệp bền vững Việt Nam 2020, Việt Nam có khoảng 700.000 doanh nghiệp, tuy nhiên chỉ có 2% trong số đó là một phần của cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững. 

Phần lớn các nghiên cứu khuyến khích áp dụng CSR tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc CSR sẽ đem lại hiệu quả tài chính và quản trị trong doanh nghiệp ra sao. Hướng tiếp cận này tuy giúp doanh nghiệp nhận thấy giá trị thương mại của CSR, nhưng đồng thời cũng tạo ra góc nhìn hạn hẹp khiến CSR bị xem như một công cụ marketing hoặc biện pháp đối phó thay vì là một cam kết đạo đức hay chiến lược phát triển bền vững lâu dài. Mặt khác, sự thiếu vắng các nghiên cứu chuyên sâu về các yếu tố như quyền con người, công bằng xã hội, quản trị minh bạch hay trách nhiệm trong chuỗi cung ứng cũng khiến nhà hoạch định chính sách gặp khó khăn trong việc xây dựng khung pháp lý toàn diện và tiệm cận với xu hướng CSR quốc tế. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến pháp luật Việt Nam hiện hành mới chỉ quy định CSR ở một số khía cạnh tối thiểu, còn nhiều nội dung vẫn để ngỏ hoặc chưa được chú trọng đúng mức, trong khi yêu cầu hội nhập toàn cầu ngày càng đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn về trách nhiệm xã hội và môi trường từ phía doanh nghiệp.

Nếu CSR chủ yếu chỉ dừng ở sự tự nguyện, chỉ các doanh nghiệp đa quốc gia và các doanh nghiệp đại chúng mới thực hiện CSR vì sức ép từ thị trường quốc tế, còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ hầu như bỏ qua thông lệ này. Chỉ khoảng hơn 10% doanh nghiệp ở Việt Nam có khả năng tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin liên quan đến các tiêu chuẩn, chính sách, hướng dẫn và dữ liệu về phát triển bền vững hoặc CSR. Lí do là bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải rào cản về ngôn ngữ, công nghệ, nguồn nhân lực và năng lực quản trị khiến họ gặp khó khăn trong việc hiểu và áp dụng các yêu cầu CSR một cách bài bản. Do không nắm rõ tiêu chuẩn hoặc không có đủ công cụ triển khai, các doanh nghiệp này dễ thực hiện CSR theo hướng hình thức, đối phó, hoặc không thực hiện gì cả. Tình trạng này dẫn đến sự phân hóa trong việc áp dụng CSR giữa các nhóm doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả tổng thể của các chính sách phát triển bền vững, đồng thời cản trở năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Nhiều lập luận cho rằng CSR không nên chỉ là sự “tự nguyện” bởi cụm từ này không đủ hiệu lực thực thi với các doanh nghiệp. Việc luật hóa CSR là cần thiết để đảm bảo công bằng và cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Các doanh nghiệp thực hiện CSR nghiêm túc sẽ chịu chi phí cao hơn so với doanh nghiệp không làm gì. Luật hóa CSR giúp “cân bằng” trách nhiệm giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng ai làm CSR thì chịu thiệt, ai không làm thì được lợi. Đây cũng là biện pháp rõ ràng nhất nhằm giúp bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan. CSR thực chất là câu chuyện của người lao động, cộng đồng, môi trường – những nội dung vốn bị cho là “thứ yếu”, “không có đủ tiếng nói” trong thị trường. Bên cạnh đó, Việt Nam đang đề ra mục tiêu hướng tới Net-zero tới năm 2050, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc nên việc thực hiện CSR bắt buộc (như báo cáo tác động xã hội, phát triển bền vững, minh bạch hóa chuỗi cung ứng) là cần thiết. Thực tế khi không có luật rõ ràng, rất khó đánh giá đâu là CSR thực chất và đâu là CSR hình thức.

Pháp, Trung Quốc và nghĩa vụ bắt buộc về CSR

Trung Quốc tích hợp CSR vào luật doanh nghiệp

Trung Quốc là một quốc gia đã kết hợp một cách rõ nét các kỳ vọng quy chuẩn trực tiếp về trách nhiệm xã hội vào hệ thống luật pháp của mình. Trong đó, nổi bật nhất là Luật Công ty năm 2006 của Trung Quốc đã quy định doanh nghiệp phải đảm nhận trách nhiệm xã hội đối với các hoạt động trong quá trình vận hành của mình. Bộ luật này cũng cung cấp sự bảo vệ toàn diện hơn cho các bên liên quan không phải là cổ đông, điển hình là nhân viên của doanh nghiệp, hay các cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh khu vực hoạt động của doanh nghiệp đó.

CSR ở Trung Quốc không chỉ là trách nhiệm đạo đức mà là một phần trong chiến lược “phát triển có kiểm soát” của chính phủ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng động thái này của Trung Quốc đã góp phần quan trọng giúp định hình nhận thức của doanh nghiệp nước này về CSR. Do sự thúc ép từ chính phủ, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc bắt đầu công bố báo cáo CSR và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường – xã hội – quản trị (ESG). Các doanh nghiệp nhà nước phải “tiên phong” trong việc thực hiện vì đây là yêu cầu bắt buộc trong đánh giá hiệu quả hoạt động. Một số công ty lớn đã cải thiện quy trình sản xuất để giảm khí thải, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.

Pháp và Luật Nghĩa vụ giám sát

Luật Nghĩa vụ giám sát của Pháp (Duty of Vigilance Law 2017) có hiệu lực vào ngày 23/3/2017. Việc thông qua luật này được coi là “một bước tiến lịch sử cho phong trào trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp và là minh chứng cho tầm quan trọng của sự tham gia của xã hội dân sự vào quá trình lập pháp”. 

Đáng chú ý, luật này yêu cầu các công ty Pháp có hơn 5.000 nhân viên tại Pháp hoặc hơn 10.000 nhân viên trên toàn cầu phải lập, công bố và thực hiện kế hoạch cảnh giác để xác định rủi ro và ngăn ngừa tác hại nghiêm trọng đến môi trường và vi phạm nhân quyền phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động của công ty, các công ty con hoặc các nhà thầu phụ mà công ty có mối quan hệ kinh doanh lâu dài.

Ngoài ra, có ba thành phần trong nghĩa vụ giám sát theo luật của Pháp: lập kế hoạch, công bố và thực hiện hiệu quả “kế hoạch cảnh giác”. Do đó, các doanh nghiệp phải lập kế hoạch cảnh giác để phát hiện các mối đe dọa và ngăn chặn thiệt hại cho môi trường, nhân quyền, sức khỏe và an toàn. Cũng theo luật này, các công ty ở Pháp phải đưa năm biện pháp vào kế hoạch: một hệ thống lập bản đồ xác định, đánh giá và xếp hạng rủi ro; các thủ tục đánh giá tình trạng của các công ty con, nhà thầu phụ hoặc nhà cung cấp cụ thể; các biện pháp chủ động để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro và tác hại nghiêm trọng; một hệ thống cảnh báo; và một hệ thống giám sát để theo dõi việc thực hiện kế hoạch và hiệu quả của các biện pháp.

Luật Nghĩa vụ giám sát của Pháp được coi là ngọn cờ đầu thúc đẩy luật hóa CSR ở cấp châu Âu. Nó thúc đẩy trách nhiệm xuyên biên giới, không chỉ trong nội bộ của công ty mà trong mạng lưới nhà cung cấp toàn cầu của công ty đó. Nhờ bộ luật này mà các quốc gia khác trong EU như Đức, Hà Lan và cuối cùng là EU cũng đưa ra chỉ thị Báo cáo Bền vững Doanh nghiệp (CSRD) mới của EU – bắt buộc các công ty phải thực hiện CSR với đo lường, đánh giá cụ thể bắt đầu có hiệu lực từ năm 2024.□

—–

Tác giả hiện là giảng viên trường Đại học Kinh tế – Luật, ĐHQG-TP.HCM

Bài đăng Tia Sáng số 14/2025

Tác giả

(Visited 347 times, 1 visits today)