Đổi mới sáng tạo để thoát các “bẫy” phát triển

Trong kinh tế tăng trưởng, thuật ngữ “bẫy” được hiểu là một tình huống mà khi nền kinh tế rơi vào, sẽ rất khó để thoát ra. Việc tránh những cái bẫy này là mục tiêu quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

Ảnh: vcci

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới – World Bank năm 2024, để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Bài viết này sẽ phân tích các yếu tố cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, định nghĩa các loại bẫy phát triển, đồng thời đề xuất các giải pháp dựa trên đổi mới sáng tạo (ĐMST) để Việt Nam vượt qua những thách thức này.

Ta có thể hình dung động lực phát triển kinh tế qua một công thức kinh điển: Yt = AtF(Kt,N*), trong đó Y là GDP, At là năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tại thời điểm t, hay thường được gọi là năng suất tổng hợp,  F(Kt,N*) là hàm biểu thị lượng hàng hóa (hay GDP) sản xuất được từ các yếu tố đầu vào gồm vốn tại thời điểm t (Kt) và lực lượng lao động tối đa (N*) – để dễ hiểu, chúng tôi giả thiết lực lượng lao động tối đa N* không đổi qua thời gian. Sự kết hợp của A, F với nhau chính là kỹ thuật sản xuất. 

Nghiên cứu của Robert Solow (1957) đã chỉ ra rằng A đóng góp tới 87,8% vào tăng trưởng GDP bình quân đầu người tại Hoa Kỳ từ năm 1909 đến 1949, một phát hiện mang tính bước ngoặt giúp ông nhận giải Nobel Kinh tế năm 1987. Nhưng A cụ thể là gì? Các nghiên cứu tiếp theo của của Robert Lucas (1988) nhấn mạnh vai trò của vốn con người (giáo dục và đào tạo), trong khi Paul Romer (1986, 1990) tập trung vào tri thức và công nghệ mới. Ngoài ra, William Baumol và cộng sự (1989) và Nicholas Bloom và cộng sự (2013) đã chỉ ra rằng chất lượng quản lý cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến A. Nghiên cứu của Lê Văn Cường và Phạm Ngọc Sáng (2022) tiếp tục khẳng định vai trò của A khi chỉ ra rằng, tốc độ tăng trưởng của GDP bình quân đầu người phụ thuộc vào sự gia tăng của năng suất tổng hợp. 


Với tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam dao động quanh mức 6-7% trong những năm gần đây (theo số liệu từ Tổng cục Thống kê), câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có đang tiến gần đến một bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình hay không?

Ta có thể kết luận rằng, đầu tư vào công nghệ mới, giáo dục-đào tạo và cải thiện tổ chức quản lý sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, ta cũng không thể bỏ qua hàm F, tức đầu tư vào máy móc và lao động vì thiếu hai yếu tố này, sản phẩm không thể được tạo ra.  

Từ việc nhận diện các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần xem xét các rủi ro mà một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam có thể gặp phải. Những cái bẫy phát triển, nếu không được nhận diện và giải quyết kịp thời, có thể cản trở hành trình tiến tới một nền kinh tế phát triển bền vững.

Bẫy nghèo khó, bẫy thu nhập trung bình, bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình

Để trình bày một cách dễ hiểu, chúng tôi giả thiết về một nền kinh tế đóng, không có xuất khẩu, nhập khẩu. Ở mỗi thời điểm t, sản lượng Yt được chia làm hai phần: tiêu dùng Ct và tiết kiệm St. Ta viết như sau Ct+St = Yt.

Ta dùng số tiền tiết kiệm St để đầu tư và mua một lượng máy mới để sử dụng cho thời điểm (t + 1). Trong nền kinh tế này, chúng tôi làm giả thiết là máy móc sẽ bị khấu hao hoàn toàn sau mỗi thời kỳ. Như vậy, lượng vốn vật chất tại thời kỳ t+1 sẽ theo công thức tích lũy vốn như sau: Kt+1 = St

Ta làm một giả thiết quan trọng là tại mỗi thời điểm t, tỷ lệ tiết kiệm luôn là một hằng số s dương nhỏ hơn 1 (s được gọi là tỷ lệ tiết kiệm): St = sYt.

Từ đây, kết hợp với công thức tích lũy vốn, ta sẽ có mối quan hệ giữa lượng vốn và TFP At qua các thời kỳ: Kt+1 = sAtF(Kt,N*). Với định nghĩa sản lượng trên đầu người yt = Yt/N* và lượng vốn trên đầu người kt = Kt/N*, chúng ta có phương trình quan trọng sau đây: kt+1 = sAt Ƒ(kt).

Phương trình này tóm tắt diễn biến của nền kinh tế. Trong đó Ƒ(kt) = F(kt,N*)/N* là hàm sản xuất ở một thời điểm t với vốn trên đầu người là kt, kt+1 là vốn trên đầu người ở thời điểm t+1 và s là một tỷ lệ vốn cố định mà nền kinh tế đó tiết kiệm được sau thời điểm t, At là năng suất tổng hợp ở thời điểm t. Để làm gọn nhẹ phần trình bày, ta giả định At không đổi theo thời gian.1

Các đồ thị phản ánh hiệu suất sử dụng vốn giảm dần theo quy mô sản xuất.

Bẫy nghèo khó

Giả sử nền sản xuất có một số chi phí cố định c, nếu lượng vốn ban đầu k0 thấp hơn chi phí này thì không sản xuất được sản phẩm (hình 1). Với điều kiện này đưa vào mô hình, ta phát hiện ra rằng, c tạo ra một lượng vốn lớn hơn nó gọi là kt* mà nếu nền kinh tế xuất phát ở mức vốn này thì nó không những không tăng trưởng mà lại còn tụt hậu (xem hình 2). Hay nói đúng hơn, khoảng [0, kt*] là một cái bẫy: nếu k0 lọt vào khoảng cách đó thì nền kinh tế sẽ bị “khóa” trong khoảng đó, không thoát ra được. Đây chính là bẫy nghèo khó. c càng lớn thì nền kinh tế càng phải khởi động với số vốn lớn hơn nhiều để có thể vượt qua mốc kt

Chi phí cố định c bao gồm cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, tham nhũng. Nói cách khác, môi trường pháp lí thiếu minh bạch là một trong những lực cản lớn đối với nền kinh tế. 

Bẫy thu nhập trung bình

Khi nền kinh tế thoát khỏi bẫy nghèo khó với số vốn khởi động lớn hơn kt* nhưng nếu A không đổi, thì đến một thời điểm nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ chững lại. Nhìn trên biểu đồ hình 2, đó là khi thu nhập đầu người đạt mức k2* và kể từ đó tốc độ tăng trưởng sẽ bằng 0. 

Giá trị k2* được gọi là bẫy thu nhập trung bình. Theo định nghĩa của World Bank, bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một quốc gia đạt mức thu nhập trung bình nhưng không thể tiến lên nhóm thu nhập cao do thiếu các động lực tăng trưởng mới.


Một quốc gia sẽ trở thành dẫn đầu hay theo sau là phụ thuộc vào khả năng có ngân sách và lượng người làm khoa học công nghệ nhiều hay ít.

Khi thấy tăng trưởng chậm lại, một nền kinh tế có thể tạo ra một kỹ nghệ mới để tăng năng suất tổng hợp (từ A đến A’) và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình k2*, tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Nhưng chớ vội mừng, bởi nếu không tiếp tục tạo ra kỹ nghệ mới ngay sau đó, nền kinh tế lại có nguy cơ rơi vào một bẫy thu nhập trung bình khác gọi là k3* trên hình 3. Điều đó có nghĩa là, nếu không tăng A liên tục thì một nền kinh tế sẽ luôn đứng trước nguy cơ rơi vào các bẫy thu nhập trung bình trên chặng đường phát triển. 

Bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình 

Tại Việt Nam, với GDP bình quân đầu người năm 2024 là 4.700 USD, nhiều nhà kinh tế lo ngại về nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế khá cao (6-7% hiện tại) cho thấy Việt Nam chưa thực sự rơi vào bẫy này và có thể “yên tâm” là đã vượt qua bẫy nghèo khó. 

Tuy nhiên, lại có một bẫy khác “chờ đợi” chúng ta – bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình. Trái với hai bẫy ở trên đã được nhiều người biết đến (nhất là qua các báo cáo của World Bank), thuật ngữ này là do chúng tôi đưa ra. 

Theo mô hình kinh tế ở trên, kể cả nếu một nền kinh tế thay đổi kỹ nghệ với năng suất tổng hợp A tăng liên tục, nhưng nếu sự tăng này chỉ ở một mức khiêm tốn nào đó, nền kinh tế sẽ quanh quẩn trong một tốc độ tăng trưởng cố định, không có sự bứt phá. Với tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam dao động quanh mức 6-7% trong những năm gần đây (theo số liệu từ Tổng cục Thống kê), câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có đang tiến gần đến một bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình hay không?

Thu hút FDI vào các công nghệ quan trọng như thế nào là điều cần cân nhắc.

Đổi mới sáng tạo và tăng trưởng kinh tế

Có thể nói, ĐMST là một trong những động lực chính để tăng năng suất tổng hợp A. ĐMST được định nghĩa dựa trên lý thuyết “phá hủy sáng tạo” của Joseph Schumpeter, theo nghiên cứu của Philippe Aghion và Peter Howitt (2024). Theo đó, việc tạo ra công nghệ mới đồng thời sẽ thay thế và loại bỏ các công nghệ lỗi thời. ĐMST có hai con đường chính:

Bắt chước (imitation): Áp dụng và cải tiến các công nghệ đã có sẵn từ thế giới. Một nước sẽ bắt chước ít hay nhiều tùy theo khoảng cách giữa công nghệ của toàn cầu (gọi là biên của công nghệ, technology frontier) và công nghệ của nước ấy. Trong nhiều lĩnh vực, khoảng cách công nghệ của Việt Nam với biên công nghệ toàn cầu còn lớn.

Sáng tạo (invention): Đầu tư vào nghiên cứu để tạo ra công nghệ mới, đặc biệt khi nền kinh tế tiến gần hơn đến biên công nghệ toàn cầu. Tại Việt Nam, ĐMST không chỉ giúp cải thiện hiệu quả và tăng trưởng kinh tế mà còn nâng cao tri thức và đóng góp vào sự phát triển của nhân loại. Theo báo cáo của OECD (xem Primo Braga và cộng sự, 2009), các quốc gia đầu tư mạnh vào R&D (nghiên cứu và phát triển) thường có tốc độ tăng trưởng TFP cao hơn, và Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm này.


Liệu có nên xem việc xây dựng các chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực công nghệ cao và nghiên cứu phát triển (R&D) là một hướng đi quan trọng hay không?

Các nước trên thế giới có thể được chia ra làm ba loại: Những nước làm tăng biên của công nghệ (nước dẫn đầu, leader) thông qua sáng tạo, các nước theo sau (followers) thì tập trung vào bắt chước  và các nước vừa làm sáng tạo vừa bắt chước. Dù ở trong giai đoạn nào, bắt chước (imitation) hay sáng tạo (invention), nền kinh tế vẫn cần phải có nhiều người có trình độ kiến thức cao. Kiến thức này được truyền đạt qua giáo dục đào tạo, đặc biệt ở các đại học.

Bắt chước hay sáng tạo? Góc nhìn từ một mô hình lý thuyết đơn giản

Lấy cảm hứng từ Aghion & Howitt (2024), Lê Văn Cường và cộng sự (2025) đã trình bày một mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm giải thích khi nào một quốc gia nên bắt chước thế giới (hoặc đi mua công nghệ) và khi nào thì quốc gia đó phải nghiên cứu, sáng tạo công nghệ mới. Các tác giả nhấn mạnh rằng điều này (bắt chước hay sáng tạo) phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của quốc gia. Cụ thể hơn, các tác giả đưa ra giả thuyết rằng chúng ta có thể phân các quốc gia ra ba trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: năng lực sáng tạo của quốc gia tương đối tốt, do đó toàn bộ nền khoa học công nghệ của nước này đã chạm biên công nghệ của thế giới, và quốc gia này sẽ phải sử dụng nghiên cứu, trở thành nước dẫn đầu và góp phân vào tăng biên công nghệ

Để áp dụng ĐMST một cách hiệu quả, Việt Nam cần tập trung vào cải cách thể chế, nâng cao chất lượng giáo dục và tăng ngân sách cho nghiên cứu. Ảnh: Trung tâm vũ trụ Việt Nam VNSC

Trường hợp thứ hai: năng lực sáng tạo của quốc gia thấp. Như vậy, nền kinh tế đó luôn là kẻ đi sau, bắt chước công nghệ thế giới. Đóng góp của sáng tạo quốc gia là không đáng kể.

Trường hợp thứ ba: trong quốc gia này, trong một số lĩnh vực, khoa học, công nghệ đã chạm vào biên công nghệ. Các lĩnh vực này làm sáng tạo. Nhưng song song có những lĩnh vực trong đó năng lực sáng tạo thấp. Các lĩnh vực đó sẽ bắt chước công nghệ thế giới.

Cần lưu ý rằng năng lực sáng tạo phụ thuộc vào số tiền đầu tư dành cho giáo dục, đào tạo, và đổi mới sáng tạo. Đương nhiên, nó cũng phụ thuộc vào chất lượng quản lý của những quá trình này. Trong cả ba trường hợp, thì sản phẩm (hay GDP) trên đầu người, trong dài hạn, sẽ không có giới hạn.

Từ việc hiểu rõ vai trò của ĐMST, chúng ta cần đặt nó trong bối cảnh các giai đoạn phát triển kinh tế của một quốc gia. Phần tiếp theo sẽ phác thảo các giai đoạn mà Việt Nam có thể trải qua trên quá trình phát triển, cùng với các chiến lược cần thiết để tiến tới giai đoạn tăng trưởng không giới hạn.

Các giai đoạn trong quy trình phát triển của một nền kinh tế

Dựa trên các phân tích trên, quy trình phát triển kinh tế của một nền kinh tế có thể được chia thành bốn giai đoạn:

1. Thoát bẫy nghèo khó: Cần vốn ban đầu đủ lớn để vượt qua ngưỡng bẫy nghèo khó, tập trung vào đầu tư cơ sở hạ tầng và cải cách thể chế.

2. Tiến tới bẫy thu nhập trung bình: Sau khi thoát nghèo, Việt Nam cần tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình bằng cách duy trì tăng trưởng.

3. Thoát bẫy thu nhập trung bình nhưng đối mặt với bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình: Liên tục cải tiến kỹ nghệ sản xuất để duy trì tăng trưởng, nhưng có nguy cơ bị kẹt ở một tốc độ tăng trưởng cố định.

4. Tăng trưởng không giới hạn nhờ ĐMST: Sử dụng ĐMST để tăng năng suất tổng hợp liên tục, không còn ngưỡng tốc độ tăng trưởng.

Tất cả các quốc gia có thể không đi đến được giai đoạn cuối cùng, vì mỗi lần chuyển giai đoạn, quốc gia phải tốn kém đầu tư (mua kỹ nghệ mới, đầu tư vào vốn tối tân hơn, đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu, cải cách thể chế,…). Do đó có những quốc gia bị “kẹt” trong bẫy nghèo khó, có quốc gia chỉ ở trong giai đoạn hai và ba. Nhưng một khi một quốc gia đi vào giai đoạn bốn thì sẽ tăng trưởng không ngừng.

Nhưng điều đó không đơn giản. Không chỉ có một quốc gia muốn đi vào “con đường” đổi mới sáng tạo. Mỗi quốc gia đều cần có vốn để sản xuất. Nhưng vốn thì có giới hạn. Các quốc gia sẽ phải cạnh tranh thu hút  vốn.

Một quốc gia sẽ trở thành dẫn đầu hay theo sau là phụ thuộc vào khả năng có ngân sách và lượng người làm khoa học công nghệ nhiều hay ít. Một quốc gia theo sau cũng không gì phải chê trách, vì họ vẫn có khả năng tăng trưởng không ngừng như phân tích ở trên. Nhưng một quốc gia có tham vọng ở trong nhóm “dẫn đầu” đổi mới sáng tạo thì phải trở thành một quốc gia làm nghiên cứu sáng tạo và trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực này.

Một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả của các chiến lược phát triển là chỉ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio). Phần tiếp theo sẽ phân tích cách ĐMST có thể cải thiện ICOR và hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng.

Đổi mới sáng tạo và ICOR

Chỉ số ICOR đo lường hiệu quả đầu tư vốn vào sản xuất, được tính bằng tỷ lệ giữa đầu tư trên GDP và tốc độ tăng trưởng GDP. Nói cách khác, tốc độ tăng trưởng GDP càng cao thì ICOR càng thấp. Điều này có nghĩa là ICOR tỷ lệ nghịch với năng suất tổng hợp A. Chỉ số này cũng cho ta thấy được, một nền kinh tế nếu muốn giữ một tốc độ tăng trưởng GDP cao nhưng đổi mới sáng tạo ở mức “khiêm tốn” sẽ phải chật vật và phụ thuộc vào nhập khẩu như thế nào. Chúng tôi gọi giá trị thấp nhất của ICOR là ICORmin và giả sử chỉ tiêu tăng trưởng GDP là g% thì tỷ lệ đầu tư trên GDP, theo công thức trên sẽ phải ít nhất là ICORmin x g%. 

Nếu Việt Nam muốn đặt mục tiêu tăng trưởng là 10% trong năm 2025 với ICOR 4.5 thì tỷ lệ đầu tư sẽ là 45% GDP. Với tỷ lệ tiêu dùng của các hộ gia đình là khoảng 63% thì tổng đầu tư lẫn tiêu dùng sẽ là 108% GDP. (Cần nói thêm là chỉ số ICOR và tỷ lệ tiêu dùng ở đây là số liệu năm 2024 và giả sử tới năm 2025 hai con số này không thay đổi đáng kể). 

Làm thế nào để đạt được con số 108% GDP này? Việt Nam buộc phải nhập siêu 8% GDP với điều kiện nhà nước “thắt lưng buộc bụng” không hề chi tiêu công một đồng nào. Dĩ nhiên điều đó là phi thực tế. Nhưng chi tiêu công càng cao, ví dụ là λ% của GDP, thì đồng nghĩa với việc nhập siêu cũng phải tăng lên tương ứng (8 + λ)% của GDP. Ví dụ như nếu chi tiêu công là 10% của GDP, thì nhập siêu của Việt Nam sẽ là 18%. Theo cách tính này thì nhập siêu sẽ tăng theo chi tiêu công để đạt mục tiêu tăng trưởng 10%.

Nếu chỉ tiêu tăng trưởng năm 2025 là 8% thì tỷ lệ đầu tư sẽ là 36% GDP. Trong trường hợp này tổng tiêu dùng và đầu tư sẽ là 63+36= 99% GDP. Chi tiêu công chỉ cần ở mức 1% thì mục tiêu tăng trưởng 8% sẽ đạt được nếu có cân bằng cán cân thương mại (xuất khẩu bằng nhập khẩu). Nếu chi tiêu công ở mức 10% của GDP thì nhập siêu sẽ là 9% của GDP. Tóm lại, chỉ tiêu tăng trưởng 8% có thể đạt được dễ hơn so với chỉ tiêu tăng trưởng 10%, nhưng theo nhận định của chúng tôi, đây sẽ là một mục tiêu rất khó, chưa kể đến những “biến cố” bất định hiện giờ của tình hình thương mại thế giới. Để giảm gánh nặng này, không có cách nào khác ngoài việc phải tăng năng suất tổng hợp A, thì theo đó ICOR sẽ giảm. 

Cuối cùng, để áp dụng ĐMST một cách hiệu quả, Việt Nam cần tập trung vào cải cách thể chế, nâng cao chất lượng giáo dục và tăng ngân sách cho nghiên cứu. Chưa kể, nói đến nghiên cứu và giáo dục, có một nhân tố khác mà chúng tôi không đưa vào mô hình đổi mới sáng tạo một cách rõ ràng. Đó là nhân tố lao động có chất lượng cao. Các quốc gia cũng sẽ phải “chạy đua” để có lao động có chất  lượng cao, và phải tốn kém. Để phân tích vấn đề này, cần phải có một mô hình thuộc lý thuyết “trò chơi” giữa các quốc gia để thu hút “nhân tài” và tiến đến những cạnh tranh/hợp tác trong nghiên cứu và đào tạo. Những vấn đề này vượt quá nội dung của bài báo này.

Tuy nhiên, chúng ta cần tỉnh táo, không nên lạc quan thái quá khi nhìn vào thực tế. Chúng tôi dẫn chứng trường hợp của Trung Quốc: (a) Thẩm Quyến, sau một thời gian dài, quãng 20 năm, tăng trưởng trung bình theo giá cố định là 20%. Kế hoạch tăng trưởng cho 2021-2025 của Thẩm Quyến là 6%.2 (b) Sau một thời gian tăng trưởng tốc độ 10%, tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm xuống trong những năm gần đây, khoảng 4-5%. Chỉ tiêu tăng trưởng cho năm 2025 là 5%. 

Phần tiếp theo sẽ thảo luận chi tiết các giải pháp cụ thể cho Việt Nam, đồng thời xem xét liệu nền kinh tế có thực sự đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay không.

Việt Nam và đổi mới sáng tạo

ĐMST được xem là chìa khóa để Việt Nam không chỉ tăng năng suất tổng hợp một cách liên tục mà còn đạt được mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2050, như đã được nêu trong các chiến lược quốc gia. Cụ thể như Quyết định 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 đề cao một số chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và ĐMST đến năm 2030, đặt mục tiêu TFP sẽ đóng góp trên 50% vào tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 nhấn mạnh “phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để Việt Nam phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới”. 

Trong phần này, chúng tôi sẽ phân tích chi tiết các yếu tố cốt lõi để thúc đẩy ĐMST tại Việt Nam, bao gồm cải cách thể chế, nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu, tăng cường ngân sách cho R&D, đồng thời đánh giá vị trí của Việt Nam trong mối quan hệ với các bẫy phát triển.

Thể chế: Xóa bỏ điểm nghẽn để thúc đẩy đổi mới 

Cải cách thể chế là nền tảng để loại bỏ các “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển kinh tế và ĐMST tại Việt Nam. Những vấn đề như thủ tục hành chính phức tạp, tham nhũng và thiếu minh bạch trong quản lý công đã được xác định là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững. Như đã được nhấn mạnh trong các nghị quyết của Chính phủ, việc tinh gọn bộ máy hành chính và tăng cường hiệu quả quản lý không chỉ là giải pháp ngắn hạn mà còn là chiến lược dài hạn để tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới. Ngoài ra, liệu có nên xem việc xây dựng các chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực công nghệ cao và nghiên cứu phát triển (R&D) là một hướng đi quan trọng hay không? Để ĐMST thực sự phát huy hiệu quả, cần loại bỏ các nhân tố không đạo đức trong nghiên cứu khoa học và quản lý, đảm bảo rằng các sáng kiến đổi mới được xây dựng trên nền tảng minh bạch và công bằng. 

Đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu: Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao 

Chất lượng giáo dục và nghiên cứu tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Theo các đánh giá gần đây, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam còn thiếu các phương pháp giảng dạy hiện đại lấy người học làm trung tâm, chưa đạt được sự liên thông với các chuẩn mực quốc tế và số lượng công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế vẫn thua kém so với các nước trong khu vực. Đội ngũ giảng viên cũng cần được nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành công nghệ cao (theo Trần Thị Minh Tuyết, 2022). 

Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách giáo dục, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, kỹ thuật. Một ví dụ điển hình là mục tiêu đào tạo 42.000 kỹ sư bán dẫn vào năm 2035, đòi hỏi phải xây dựng các trường đào tạo chuyên sâu, có thể nằm trong hoặc ngoài hệ thống đại học, dựa trên mô hình của các nước phát triển như Pháp, Mỹ hay các nước Tây Âu. Hơn nữa, các hợp tác quốc tế, như thỏa thuận giữa Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân với Đại học Thanh Hoa (là một trong những ĐH hàng đầu của Trung Quốc), là một bước tiến quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế. Theo OECD (Égert và cộng sự, 2022), đầu tư vào giáo dục và nghiên cứu ứng dụng là yếu tố quyết định để các quốc gia đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững thông qua cải thiện năng suất. 

Ngân sách: Đầu tư chiến lược cho R&D 

Ngân sách dành cho R&D tại Việt Nam hiện nay vẫn còn ở mức thấp, chỉ đạt khoảng 0,4% GDP vào năm 2021, so với 2,2% của Pháp, 2,4% của Trung Quốc và 1,2% của Thái Lan. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã cam kết nâng mức chi này lên 3% GDP hằng năm, với 70% đóng góp từ khu vực tư nhân và phần còn lại từ ngân sách nhà nước. Đây là một quyết tâm đáng ghi nhận, nhưng để đạt được hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan và đảm bảo rằng nguồn vốn được sử dụng một cách minh bạch, tập trung vào các lĩnh vực chiến lược như công nghệ thông tin, sản xuất bán dẫn, năng lượng mới và năng lượng sạch, v.v. 

Việc tăng cường đầu tư vào R&D, kết hợp với các chính sách thu hút FDI, có thể giúp Việt Nam cải thiện đáng kể năng suất và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế (Saurav & Kuo, 2020). Ngoài ra, các nghị quyết như Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai đồng bộ các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo để hỗ trợ các ngành kinh tế mũi nhọn. Phải chăng ta có thể xem đây là thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc sử dụng ngân sách một cách hiệu quả để thúc đẩy ĐMST? 

Việt Nam và bẫy thu nhập trung bình: Thực trạng và triển vọng 

Câu hỏi liệu Việt Nam có đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình vẫn là một chủ đề gây tranh cãi. Theo định nghĩa của World Bank, bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một quốc gia đạt mức thu nhập trung bình nhưng không thể tiến xa hơn để gia nhập nhóm các nước thu nhập cao. Với GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD vào năm 2024, Việt Nam hiện thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp, trong khi ngưỡng để đạt thu nhập cao là 14.005 USD (tính theo GNI bình quân trên đầu người).3 Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 6-7% mỗi năm từ năm 2014 đến nay (trừ giai đoạn 2020-2021 do ảnh hưởng của COVID-19), Việt Nam chưa thực sự rơi vào bẫy này, bởi tăng trưởng vẫn được duy trì ở mức cao. 

Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng GDP 7% mỗi năm, với đà tăng dân số trung bình 1% hằng năm, thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ tăng khoảng 6% mỗi năm, đạt 14.220 USD vào năm 2045 (theo giá của 2024), có thể đưa đất nước vào nhóm thu nhập cao. Tuy nhiên, nguy cơ rơi vào bẫy tốc độ tăng trưởng trung bình vẫn tồn tại, khi tốc độ tăng trưởng có thể bị chững lại nếu không có các động lực mới từ ĐMST. 

Kết luận 

Để ĐMST thực sự trở thành động lực phát triển, Việt Nam cần thực hiện một cách tiếp cận toàn diện, kết hợp cải cách thể chế, đầu tư vào giáo dục và nghiên cứu, cũng như tăng cường nguồn lực tài chính cho R&D. Dựa vào những phân tích có tính chất lý thuyết ở trên, chúng tôi nghĩ Việt Nam nên ưu tiên các chính sách sau đây: 

• Tăng cường thu hút FDI trong các ngành công nghệ cao: Xây dựng các chính sách ưu đãi để khuyến khích các tập đoàn đa quốc gia thiết lập trung tâm R&D tại Việt Nam, như đã được đề cập trong các chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam. 

• Đẩy mạnh chuyển đổi số: Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong kinh tế và quản lý công để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đồng thời hỗ trợ phát triển thương mại điện tử và các ngành dịch vụ hiện đại. 

• Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Cải cách giáo dục, tập trung phát triển giáo dục các ngành STEM, đào tạo lao động trong các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn (như bán dẫn, năng lượng tái tạo, và trí tuệ nhân tạo, v.v.), phát triển nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế về giáo dục và nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan. 

• Đưa ĐMST vào tất cả những ngành nghề, có thể không thuộc diện công nghệ cao nhưng đáp ứng đời sống của người dân, đặc biệt những ngành nghề trong lĩnh vực kinh tế phi chính thức. 

Tóm lại, đổi mới sáng tạo không chỉ là công cụ để Việt Nam vượt qua các bẫy phát triển mà còn là động lực để đạt tăng trưởng bền vững và tiến tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2050. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, nghiên cứu và cải cách thể chế, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác. Câu hỏi lớn là: làm sao có được các chính sách đúng đắn, để Việt Nam có thể biến thách thức thành cơ hội và đạt được những bước tiến vượt bậc trong tương lai?□ 

—–

* Trường kinh tế Paris, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp

†Métis Lab, Trường kinh doanh EM Normandie, Pháp

‡EconomiX, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp & Đại học Paris Nanterre

§Métis Lab, Trường kinh doanh EM Normandie, Pháp

1 Chúng tôi chỉ trình bày các kết quả chính của phân tích mô hình ở đây. Bạn đọc có thể liên hệ với các tác giả để có thêm chi tiết. Cuong.Le-Van@univ-paris1.fr

2 Nguồn: https://www.tresor.economie.gouv.fr/Articles/148242c6-d082-4be5-a705-07ae420b8559/

files/\1ee5bb9c-c66e-4088-a0d2-179e32c3ea3f

3 GDP và GNI trên đầu người của Việt Nam không khác biệt lắm. Ví dụ như hai chỉ số này cho năm 2023 là 4347 USD và 4180 USD (theo giá hiện hành), chênh lệch dưới 4%.

Tài liệu 

Aghion, P. & Howitt, P. W. (2024). The Economics of Growth. MIT press, Cambridge. 

Baumol, W. J., Blackman, S. A. B. & Wolff E. N. (1989). Productivity and American leadership: the long view. MIT press, Cambridge. 

Bloom, N., Eifert, B., Mahajan, A., McKenzie, D. & Roberts, J. (2013). “Does management matter? Evidence from India,” Quarterly Journal of Economics, 128(1), pp. 1-51. 

Coppola, A., Dray, S., Wai-Poi, M. & Winkler, D.E. (2024). Việt Nam 2045: Nâng cao vị thế Thương mại trong một thế giới đang thay đổi – Con đường dẫn đến tương lai thu nhập cao của Việt Nam. World Bank Group, Washington D.C. 

Égert, B., de la Maisonneuve, C. & Turner, D. (2022), “A new macroeconomic measure of human capital exploiting PISA and PIAAC: Linking education policies to productivity,” OECD Economics Department Working Papers, No. 1709, OECD Publishing, Paris. 

Lê Văn Cường & Phạm Ngọc Sáng (2022). “Why does productivity matter?” in Le Van et al. (eds). International Trade, Economic Development, and the Vietnamese Economy, New Frontiers in Regional Science: Asian Perspectives, 61. 

Lê Văn Cường, Nguyễn Hữu Thành Tâm & Phạm Ngọc Sáng (2025). “Xem xét kinh tế Việt Nam trong sáu tháng đầu năm 2024 – Nhìn về tương lai,” Tạp chí Quản lý & Kinh tế Quốc tế, số 170. DOI: doi.org/10.38203/jiem.vi.122024.1212. 

Lucas, R. E. (1988). “On the mechanics of economic development,” Journal of Monetary Economics, 22, pp. 3-42. 

Primo Braga C.A., Padoan, P.C., Chandra, V. & Eröcal, D. (eds) (2009). Innovation and Growth: Chasing a Moving Frontier, OECD Publishing, Paris.

Romer, P.M. (1986). “Increasing returns and long-run growth,” Journal of Political Economy, 94, pp. 1002-1037.

Romer, P.M. (1990). “Endogenous technological change,” Journal of Political Economy, 98, pp. S71-S102.

Saurav, A. & Kuo, R. (2020). Foreign Direct Investment and Productivity: A Literature Review on the Effects of FDI on Local Firm Productivity. World Bank Group, Washington D.C.

Solow, R. (1957). “Technical change and the aggregate production function,” Review of Economics and Statistics, 39(3), pp. 312–320.

Trần Thị Minh Tuyết (2022). “Đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp,” Tạp chí Cộng sản, ngày 21/05/2022.

World Bank (2024). The Middle-Income Trap, World Development Report 2024, World Bank Group, Washington D.C.

Bài đăng Tia Sáng số 12/2025

Tác giả

(Visited 494 times, 4 visits today)