Khai thác và xuất khẩu khoáng sản thô: Những bài học lớn

Ngay tại châu Á, hai nền kinh tế lớn là Nhật Bản và Trung Quốc đang tìm mọi cách “bảo toàn” tài nguyên khoáng sản trong nước và tìm kiếm, khai thác nguồn nguyên liệu thô ở nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong nước. Trong khi đó, Việt Nam lại đi ngược xu hướng này, thi nhau khai thác tài nguyên để bán ra nước ngoài. Bài học của các nước nói trên đáng để chúng ta suy nghĩ nhằm đưa ra các biện pháp quyết liệt, hạn chế tình trạng “chảy máu khoáng sản” đang diễn ra ồ ạt hiện nay.


Kinh nghiệm cho Việt Nam

Câu chuyện thứ nhất được bắt đầu với Trung Quốc – một quốc gia có nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm khoáng sản lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ) cho mục đích phát triển nền công nghiệp của mình. Đến nay, ngành khai khoáng Trung Quốc đã tự đáp ứng được khoảng 92% về khoáng sản năng lượng, 80% về khoáng sản cho công nghiệp và khoảng 70% khoáng sản cho sản xuất vật tư nông nghiệp1. Tuy nhiên, để đảm bảo cho các mục tiêu phát triển trong tương lai, Trung Quốc đã có chiến lược nhập khẩu không hạn chế các loại tài nguyên khoáng sản (TNKS) chiến lược; mở rộng đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác TNKS; thành lập trung tâm dự trữ các loại TNKS chiến lược; đưa ra các mô hình khai thác chế biến khoáng sản trong nước theo hướng bền vững.
Hiện tại, Trung Quốc vẫn là nước cung ứng nguồn khoáng sản hàng đầu cho Mỹ nhưng Trung Quốc đã và đang trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản trong tiêu thụ nguyên liệu và sản xuất sản phẩm khoáng sản. Trung Quốc đã đưa ra những sách lược cụ thể đối với các nước đối tác của mình để “Giang rộng cánh tay thâu tóm toàn bộ tài nguyên khoáng sản trên thế giới”2.

Đối với những nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin, Trung Quốc thực hiện hỗ trợ chính thức (ODA) đổi lấy quyền khai thác mỏ. Khoáng sản khai thác ở những nước này được mang về chế biến tiếp ở Trung Quốc. Nhờ nhập khẩu ồ ạt quặng Bauxite và quặng sắt, Trung Quốc đã trở thành nước xuất siêu về nhôm và kim loại đen trong những năm gần đây3.

Đối với những nước công nghiệp phát triển, Trung Quốc tìm cách có chân trong hội đồng quản trị những Tập đoàn khoáng sản quốc tế. Để làm được điều này, Trung Quốc áp dụng theo hai cách. Cách thứ nhất, thu mua cổ phiếu niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán quốc tế. Cách thứ hai, bỏ vốn vào những tập đoàn khoáng sản gặp khó khăn tài chính phải tìm thêm vốn mới. Cả hai cách này đều đem lại nguồn khoáng sản dồi dào với giá cạnh tranh.


Kiểm tra một địa điểm khai thác than trái phép tại Quảng Ninh

Câu chuyện thứ hai liên quan tới Nhật Bản, một cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhận thức rõ ràng là một quốc gia nghèo về khoáng sản trong khi nhu cầu sử dụng lại rất lớn, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chính sách hợp lý để đảm bảo nhu cầu khoáng sản sử dụng trong nước cho mục tiêu phát triển kinh tế. Nhật Bản tăng cường đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với các Chính phủ khác để có nguồn nguyên liệu. Chính phủ Nhật Bản cũng bắt đầu tiếp cận với hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân để đầu tư vào các dự án tìm kiếm quặng sắt ở Australia.

Sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản cho các công ty trong nước trong các dự án khai thác tài nguyên tại nước ngoài diễn ra trong bối cảnh nhu cầu khoáng sản ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng nhanh, khiến các nước này đẩy mạnh khai thác tài nguyên tại nước ngoài. Ngoài việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, để đối phó với các tập đoàn lớn của Brazil, Anh và Australia đang khống chế thị trường quặng sắt thế giới, các công ty Nhật Bản có xu hướng liên minh liên kết. Vào cuối năm 2008, năm công ty cán thép hàng đầu Nhật Bản đã liên kết với nhau để mua lại quyền khai thác một mỏ quặng vào loại lớn nhất ở Brazil4.

Như vậy, với hai câu chuyện về Trung Quốc và Nhật Bản, có thể nhận thấy thế giới đang đứng trước thách thức cạn kiệt tài nguyên và xu thế cạnh tranh toàn cầu về TNKS. Nhiều quốc gia chậm phát triển nhưng có lợi thế về tài nguyên đang trở thành đối tượng để các quốc gia và các tập đoàn khai khoáng có tiềm lực gây ảnh hưởng và giành quyền khai thác tài nguyên này. Do vậy, cùng với việc điều chỉnh luật và các chính sách liên quan cho ngành công nghiệp khai khoáng, các quốc gia đứng trước thực tiễn đòi hỏi về nhu cầu tăng mạnh nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp trong nước đã và đang triển khai nhiều biện pháp. Đó là, (i) hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện trạng, đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi trường, đồng thời cải tiến công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản phẩm khoáng sản có ích; (ii) tăng cường nhập khẩu khoáng sản thô, các khoáng sản có nguy cơ cạn kiệt, thực hiện dự trữ quốc gia về TNKS; (iii) thúc đẩy hợp tác, liên doanh khai thác khoáng sản.

Bên cạnh đó việc tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng đầu tư phát triển công nghệ hiện đại và hợp lý, năng lực tổ chức quản lý trong thăm dò, khai thác và chế biến; khả năng bảo hộ và bao tiêu sản phẩm sau khai thác là những vấn đề được nhiều nước có nền công nghiệp phát triển quan tâm.

Vấn nạn khai thác bừa bãi, lãng phí

Đứng trước xu hướng nói trên của thế giới, câu hỏi đặt ra là Việt Nam nên làm gì để bảo vệ nguồn TNKS của mình cho việc phát triển nền kinh tế và cho tương lai?

Quốc hội hiện cũng đang thảo luận để điều chỉnh, sửa đổi Luật Khoáng sản hướng tới việc khai thác và sử dụng TNKS tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Dự kiến Luật Khoáng sản sửa đổi sẽ được Quốc hội thông qua vào kỳ họp cuối năm nay.

Trên thực tế, TNKS của Việt Nam đang bị khai thác bừa bãi, lãng phí và chủ yếu để xuất khẩu thô. Hiện Việt Nam vẫn chưa có chiến lược dự trữ TNKS cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tình trạng khá phổ biến hiện nay là ở đâu có khoáng sản, ở đó có khai thác, khai thác tối đa, khai thác bằng mọi giá và khai thác bất kỳ loại khoáng sản nào để xuất khẩu, không quan tâm đến hậu quả môi trường…

Việc Trung Quốc tăng cường ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm của ngành khai khoáng Titan của Việt Nam để dự trữ, trong khi trữ lượng Titan của Trung Quốc được đánh giá đứng đầu thế giới là vấn đề đáng để suy nghĩ. Công nghệ thiếu, tiềm lực tài chính yếu dẫn đến Việt Nam đành phải chấp nhận bán thô tài nguyên khoáng sản quí hiếm của mình.


Trong khi đang xuất khẩu than với giá rẻ thì chính KTV cùng một số tập đoàn lớn khác lại xây dựng đề án nhập khẩu than từ 2012 trở đi, với số lượng ngày càng nhiều hơn

Cũng như Titan, các loại khoáng sản khác như sắt, đồng, chì,…cũng được Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam qua con đường chính thức lẫn tiểu ngạch qua biên giới. Cuối năm 2009, Bộ Công thương Việt Nam5 đã tiếp tục đề nghị Thủ tướng cho Tập đoàn TKV xuất khẩu thêm thêm 400 nghìn tấn quặng sắt, 84 nghìn tấn tinh quặng magnetit, 18 nghìn tấn mangan, 44 nghìn tấn kẽm… để tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc TKV do dư thừa biên chế và thiếu công nghệ chế biến sâu trong nước. Sau khi đã thực hiện xuất khẩu 24 triệu tấn than trong năm 2009, năm nay TKV lại đề nghị xuất khẩu thêm 18 triệu tấn nữa. Riêng đối với quặng đồng, ngày 27/2, TKV lại đề nghị cho xuất khẩu 20.000 tấn tinh quặng đồng quy khô, với lý do là để ổn định tình hình tài chính, duy trì sản xuất của tổ hợp khai thác Sin Quyền (Lào Cai)… Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2009 số lượng quặng và khoáng sản xuất khẩu lên tới 2,15 triệu tấn, đạt kim ngạch gần 135 triệu USD (chưa kể dầu thô). Và các khoáng sản này chủ yếu vẫn được xuất khẩu sang thị trường quen thuộc là Trung Quốc.

Trong khi vẫn tiếp tục xuất khẩu than với mức giá được nhiều chuyên gia kinh tế cho là thấp, thì Tập đoàn TKV cùng một số tập đoàn, tổng công ty khác như Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép… lại xây dựng đề án nhập khẩu than để từ năm 2012 trở đi, nhập khẩu than với số lượng ngày càng lớn. Đây là một thực tế luẩn quẩn trong chiến lược tiết kiệm và sử dụng hợp lý TNKS của Việt Nam.

Việc hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng tạo ra những cơ hội lớn cũng như những thách thức đáng kể cho Việt Nam trong công cuộc phát triển đất nước. Những ảnh hưởng (tiêu cực lẫn tích cực) xuất phát từ yếu tố nội tại cũng như yếu tố bên ngoài đã và đang tác động mạnh mẽ tới Việt Nam trong chiến lược quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung vốn đã có nhiều bất cập.

Ngành khai khoáng của Việt Nam đang phải đối mặt với sự phát triển thiếu bền vững do nhiều yếu tố như cơ sở pháp lý, thực thi pháp luật và ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài.

Cần phải làm gì?

Việt Nam cần xây dựng và áp dụng các chính sách cũng như thể chế tốt hơn về quản lý tài nguyên thiên nhiên cho các vùng dễ bị ảnh hưởng nhằm giảm thiểu cũng như loại bỏ những rủi ro mang lại.

Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu xây dựng các trung tâm dự trữ khoáng sản và cấm triệt để xuất khẩu khoáng sản thô. Các trung tâm dự trữ khoáng sản này nên đặt ở các địa phương có nguồn tài nguyên lớn về khoáng sản để thuận lợi cho việc thu mua khoáng sản thô để dự trữ cho chế biến sâu và kêu gọi đầu tư để sớm tiếp nhận công nghệ và hình thành các nhà máy chế biến các sản phẩm sâu.

Ngoài ra, cũng cần nâng cao hệ số thu hồi trong quá trình khai thác chế biến. Cần có những chính sách đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị khai thác chế biến, khuyến khích hỗ trợ đối với khai thác tận thu ở khu vực khó khăn, phức tạp.
Hiểu rõ những tổn thất có thể xảy ra trong quá trình khai thác quá mức các nguồn tài

nguyên và biết được những ảnh hưởng của thị trường toàn cầu tới thị trường trong nước sẽ là bước khởi đầu để thảo luận đổi mới chính sách và thể chế nhằm giải quyết bài toán tài nguyên.
—————
1 Theo các báo cáo của Ủy ban Điều tra Địa chất Hoa Kỳ (USGS) và Ngân hàng Thế giới (WB)
2 http://www.vinamotorvietnam.com /khoangsan/NewsDetail.aspx?k=3&cate=17&tuto=82
3 Ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB
4 http//www.natural-resources.org/minerals/CD/docs/twb/Invest_Regime LAC.pdf
5 Tuần Vietnamnet – tuanvietnamnet.vn

Tác giả

(Visited 33 times, 1 visits today)