Khi Luật Cạnh tranh chưa nhận diện được ĐMST: Nguy cơ từ các thương vụ “mua lại sát thủ”
Khi một ý tưởng mới có khả năng đe dọa vị thế của các ông lớn công nghệ, nhiều khi nó không chết vì thất bại thị trường, mà chết vì… bị mua lại. Những tập đoàn lớn không chờ cạnh tranh diễn ra. Họ chủ động chấm dứt nó từ trong trứng nước. Đó là killer acquisitions (mua lại sát thủ) - mô hình thâu tóm không nhằm đổi mới – nơi sáng tạo bị chôn vùi. Liệu pháp luật cạnh tranh Việt Nam có đủ khả năng nhận diện và kiểm soát những thương vụ “mua lại sát thủ” trong kỷ nguyên kinh tế số?

Khi ĐMST bị triệt tiêu trong các thương vụ M&A
Ngày càng nhiều doanh nghiệp trẻ bước vào đường đua sáng tạo, “mặt trái” của đổi mới cũng dần xuất hiện, đó là những thương vụ “mua lại sát thủ”- các “ông lớn” thâu tóm những startup tiềm năng, biến ý tưởng ĐMST thành công cụ củng cố vị thế thị trường thay vì động lực phát triển. Đây là dạng rủi ro cạnh tranh động1 (dynamic harm – cạnh tranh liên quan đến R&D, công nghệ, ĐMST) nguy hiểm nhất, bởi nó không làm giá tăng ngay lập tức, nhưng làm mất đi các công nghệ mới trước khi chúng kịp trưởng thành.
Điển hình cho rủi ro này là thương vụ Illumina mua lại Grail với giá 7,1 tỷ USD gây chấn động giới chính sách cạnh tranh toàn cầu vào năm 2023. Illumina gần như độc quyền cung cấp nền tảng công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (NGS) cho nghiên cứu và xét nghiệm sinh học, trong khi Grail lại phụ thuộc hoàn toàn vào công nghệ này để phát triển sản phẩm “Galleri” giúp xét nghiệm đa ung thư sớm từ mẫu máu. Việc thâu tóm làm dấy lên lo ngại Illumina sẽ ưu tiên Grail và gây bất lợi cho các startup cạnh tranh, khiến họ khó tiếp cận công nghệ thiết yếu hoặc phải chịu phân biệt đối xử. Hệ quả là động lực R&D bị suy giảm, thị trường bị “khóa chặt” và sự đa dạng công nghệ trong lĩnh vực xét nghiệm ung thư sớm bị thu hẹp, gây ra nguy cơ triệt tiêu đổi mới ở cấp độ hệ sinh thái2.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này. Đáng chú ý là vụ Grab mua lại đối thủ Uber vào năm 2018. Khi Grab thâu tóm Uber, chiếm lĩnh toàn bộ mảng gọi xe công nghệ và không còn phải chịu sức ép cạnh tranh trực diện về công nghệ, mô hình hay chiến lược giá. Cạnh tranh giảm đồng nghĩa tốc độ đổi mới có thể chậm lại, còn người tiêu dùng mất đi lựa chọn và những cải tiến từng được thúc đẩy nhờ cuộc đua giữa hai “ông lớn”. Cách tiếp cận truyền thống để đánh giá cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004, vốn chỉ nhìn vào thị phần thay vì đánh công nghệ, đã bỏ lọt một rủi ro lớn hơn: hậu quả dài hạn đối với sự đổi mới trong ngành.
Các thương vụ “mua lại sát thủ” có thể làm suy yếu năng lực đổi mới của thị trường trong dài hạn, khiến động lực sáng tạo suy yếu, khả năng xuất hiện công nghệ thay thế bị chậm lại hoặc biến mất.
Thay vì làm tăng giá hoặc giảm sản lượng ngay lập tức, các thương vụ mua bán sáp nhập (M&A) “mua lại sát thủ” có thể làm suy yếu năng lực đổi mới của thị trường trong dài hạn, khiến động lực sáng tạo suy yếu, đầu tư R&D bị cắt giảm và khả năng xuất hiện công nghệ thay thế bị chậm lại hoặc biến mất3, 4.
Nguy cơ “triệt tiêu đổi mới” ngày càng phức tạp và khó lường, khi nhiều doanh nghiệp lớn tận dụng sức mạnh tài chính và dữ liệu để thâu tóm các đối thủ, startup có khả năng đổi mới độc lập không phải để phát triển, mà để triệt tiêu đổi mới thông qua hoạt động sáp nhập5. Các doanh nghiệp lớn với vị thế vững chắc thường không còn chịu áp lực phải ĐMST để duy trì sức cạnh tranh, trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại là nguồn lực chủ yếu thúc đẩy ĐMST thông qua ý tưởng sáng tạo, mô hình linh hoạt và công nghệ mới, thay vì cạnh tranh bằng quy mô hay thị phần.
Thực ra hiện nay không phải lần đầu Việt Nam đối diện nguy cơ từ các thương vụ thâu tóm “mua lại sát thủ” có khả năng gây ra hệ quả lâu dài. Những năm đầu mở cửa kinh tế, khi Việt Nam chưa có Luật Cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp trong nước đã bị các tập đoàn nước ngoài mua lại để thâu tóm thị phần, sở hữu thương hiệu hoặc tài sản chiến lược. Hàng loạt thương hiệu quen thuộc như Tribeco (bị Uni-President thâu tóm), Dạ Lan (về Colgate), P/S (về tay Unilever)… đã biến mất, bị “hòa tan” hoặc mất quyền kiểm soát sau sáp nhập. Đây là những minh chứng cho giai đoạn mà thị trường Việt Nam hầu như không có công cụ pháp lý để giám sát thâu tóm, triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường.
Điểm tương đồng nằm ở chỗ cả hai thời kỳ đều chứng kiến hiện tượng “lớn thâu tóm nhỏ” để loại trừ đối thủ. Nhưng điểm khác biệt – và nghiêm trọng hơn – là động cơ thâu tóm đã thay đổi: nếu trước kia doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu mua để mở rộng, thì trong bối cảnh cạnh tranh dựa vào đổi mới sáng tạo, các tập đoàn công nghệ mua để ngăn chặn mối đe dọa trong tương lai.

Khi thị trường chuyển sang mô hình cạnh tranh dựa trên dữ liệu và đổi mới sáng tạo, các dạng thâu tóm mang tính “loại trừ nguy cơ cạnh tranh trong tương lai” càng khó phát hiện nếu cơ chế pháp lý vẫn dựa vào cách tiếp cận cũ. Nếu cơ chế đánh giá cạnh tranh bỏ sót nhiều lỗ hổng, lịch sử có thể tái diễn giống giai đoạn mở cửa, chỉ khác rằng thứ bị “xóa sổ” không chỉ là tài sản hữu hình, thương hiệu, mà là các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới, những hạt giống đổi mới sáng tạo.
Vì sao Việt Nam đặc biệt dễ xảy ra tình trạng “mua lại sát thủ”?
Tại Việt Nam, việc kiểm soát các thương vụ này đang đối mặt với hai lỗ hổng lớn: “ngưỡng thông báo” tập trung kinh tế chưa bao quát được rủi ro ĐMST và quy trình thẩm định vẫn dựa trên cách tiếp cận tĩnh, khó phát hiện được tác động đổi mới.
Các tiêu chí đánh giá M&A chưa phản ánh rủi ro đổi mới sáng tạo
“Ngưỡng thông báo” là các tiêu chí định lượng các thương vụ M&A (doanh thu, tài sản, giá trị giao dịch hoặc thị phần) được Luật Cạnh tranh6 sử dụng để quyết định doanh nghiệp có bắt buộc phải báo cáo giao dịch M&A cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trước khi thực hiện hay không.
Thách thức pháp lý lớn hiện nay là các tiêu chí này đo lường quy mô hiện tại, trong khi phần lớn các thương vụ “mua lại sát thủ” lại nhắm vào startup có doanh thu không đáng kể và giá trị tài sản thấp nhưng sở hữu công nghệ đột phá có tiềm năng trong tương lai. Vì vậy, những thương vụ có thể làm thay đổi cục diện cạnh tranh trong tương lai lại dễ dàng nằm dưới ngưỡng thông báo và không bị giám sát tiền kiểm. Khoảng trống này khiến các doanh nghiệp lớn có thể lách luật để thâu tóm đối thủ tiềm năng, vô hiệu hóa áp lực cạnh tranh trong tương lai. Trong nhiều trường hợp, sản phẩm của startup trùng lặp với dòng phát triển của doanh nghiệp lớn, khiến họ chọn mua lại và đóng cửa đối thủ thay vì cạnh tranh bằng đổi mới. Đây là dạng loại trừ cạnh tranh tiềm năng tinh vi nhưng lại hoàn toàn “hợp pháp” nếu giao dịch nằm dưới ngưỡng thông báo theo quy định hiện hành.
Không có tiêu chí độc lập để đánh giá tác động đến R&D, bằng sáng chế hay năng lực sáng tạo, nhiều thương vụ “mua lại sát thủ” có thể vượt qua kiểm soát chỉ vì vẫn đáp ứng được ngưỡng định lượng truyền thống như doanh thu hoặc thị phần.
Nhận thấy nguy cơ triệt tiêu ĐMST tinh vi qua các thương vụ “mua lại sát thủ”, Liên minh châu Âu (EU) đã chọn con đường canh giữ tiền tuyến pháp lý thay vì chờ tới lúc hành vi “mua lại sát thủ” trở nên rõ ràng. Cụ thể, các cơ quan quản lý cạnh tranh của EU hiện nay có xu hướng diễn giải lại các tiêu chí truyền thống hiện có để kiểm soát những giao dịch dưới ngưỡng báo cáo truyền thống, đặc biệt nhằm xem xét giao dịch giá trị giao dịch nhỏ nhưng rủi ro cao đối với ĐMST – điển hình trong lĩnh vực công nghệ và dược phẩm (Ủy ban châu Âu (EC) đã diễn giải lại Điều 22 Quy chế Sáp nhập EU (EUMR))7. Đây là cách để nhận diện các thương vụ có nguy cơ triệt tiêu ĐMST ngay cả khi thị phần không lớn.
Nếu Việt Nam không điều chỉnh các ngưỡng thông báo hoặc không trao cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quyền kiểm tra xem xét các thương vụ dưới ngưỡng khi có dấu hiệu rủi ro thì có thể nhiều thương vụ triệt tiêu đổi mới sẽ bị bỏ sót. Đây chính là khoảng trống pháp lý mà các doanh nghiệp lớn có thể lợi dụng.
Quy trình thẩm định và xác định thị phần còn hạn chế
Ngay cả khi một thương vụ được đưa vào diện xem xét thì quy trình thẩm định và cách xác định thị phần vẫn bộc lộ nhiều bất cập, khiến cơ quan quản lý khó nhận diện đầy đủ rủi ro hạn chế cạnh tranh trong các lĩnh vực công nghệ mới. Quy trình xem xét tập trung kinh tế ở Việt Nam được chia thành hai giai đoạn8 thẩm định sơ bộ và thẩm định chính thức.
Quy trình thẩm định sơ bộ tại Việt Nam vẫn thiên về đánh giá tĩnh, tức là thẩm định chủ yếu dựa vào các chỉ số định lượng như doanh thu, tài sản hoặc thị phần tại thời điểm hiện tại, tổng thị phần của các bên tham gia mua – bán (thị phần kết hợp) và chỉ số tập trung HHI (Herfindahl – Hirschman Index) để xác định nguy cơ hạn chế cạnh tranh. Doanh nghiệp phải tự báo cáo thị phần của mình, thường dựa trên dữ liệu nội bộ hoặc ước tính chủ quan. Điều này tạo ra rủi ro thông tin bất cân xứng, các bên thâu tóm có xu hướng “vẽ” thị trường rộng hơn để giảm tỷ lệ thị phần kết hợp, khiến thương vụ dễ vượt qua vòng thẩm định sơ bộ. Ví dụ, công ty gọi xe có thể lập luận rằng họ cạnh tranh không chỉ với các doanh nghiệp cùng mô hình ứng dụng, mà còn với taxi truyền thống, dịch vụ thuê xe tự lái hoặc thậm chí là giao thông công cộng. Cách lập luận này khiến thị trường tưởng như rộng hơn, con số thị phần kết hợp sau sáp nhập trông có vẻ nhỏ. Tuy nhiên, nếu nhìn đúng vào phạm vi hoạt động cốt lõi, tức là thị trường gọi xe trực tuyến, hai bên sáp nhập có thể đang nắm giữ phần lớn thị trường, gần như không còn chỗ cho đối thủ mới tham gia.
Bước sang giai đoạn thẩm định chính thức, Luật Cạnh tranh 2018 yêu cầu phải chứng minh được tác động tiêu cực đối với cạnh tranh lớn hơn lợi ích kinh tế – xã hội mà thương vụ mang lại. Đây là một nguyên tắc hợp lý, nhưng lại thiếu hướng dẫn cụ thể về cách đo lường tác động đến đổi mới sáng tạo, vốn là yếu tố cốt lõi trong thị trường công nghệ. Chính vì không có tiêu chí độc lập để đánh giá tác động đến R&D, bằng sáng chế hay năng lực sáng tạo, nhiều thương vụ “mua lại sát thủ” có thể vượt qua kiểm soát chỉ vì vẫn đáp ứng được ngưỡng định lượng truyền thống như doanh thu hoặc thị phần.
Không chỉ Việt Nam vấp phải các nguy cơ này. Hai thương vụ Meta (Facebook) mua lại Instagram (2012) và WhatsApp (2014) là ví dụ điển hình cho việc cách tiếp cận cạnh tranh tĩnh truyền thống không còn đủ để đánh giá đúng rủi ro cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ số.
Dưới tư duy tĩnh, cơ quan cạnh tranh đánh giá chủ yếu dựa trên thị phần, doanh thu, giá cả và sản lượng ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, Instagram và WhatsApp, giống như nhiều dịch vụ kỹ thuật số khác, cung cấp dịch vụ miễn phí (giá bằng 0) cho người dùng cuối9, khiến các chỉ số định lượng truyền thống như HHI hay thị phần gần như không phản ánh đúng sức cạnh tranh của hai nền tảng này với Facebook.
Không chỉ vậy, các cơ quan cạnh tranh Mỹ và châu Âu đã gặp khó khăn trong việc xác định thị trường liên quan theo tiêu chuẩn truyền thống. Ví dụ, khi Meta mua Instagram, các cơ quan cạnh tranh không coi Facebook (mạng xã hội) và Instagram (ứng dụng chia sẻ ảnh) nằm trong cùng một thị trường mà họ coi Facebook là nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội và Instagram chỉ là ứng dụng chia sẻ ảnh10 nên không đánh giá hai nền tảng này là đối thủ trực tiếp.
Chỉ khi đặt trong khuôn khổ “cạnh tranh động”, nhìn thị trường như một quá trình đổi mới liên tục – nơi quan trọng không phải là sức mạnh hiện tại mà là khả năng tạo ra sức ép cạnh tranh trong tương lai thì bản chất việc “triệt tiêu đổi mới” mới lộ ra. Việc Facebook thâu tóm thay vì cạnh tranh với Instagram và WhatsApp đã được nhiều học giả và cơ quan quản lý xem như một dạng “mua lại sát thủ”, giúp doanh nghiệp thống lĩnh triệt tiêu đối thủ tiềm năng và duy trì quyền lực thị trường dài hạn.
Nếu tiếp tục phân tích tĩnh thay vì phân tích động thì các cơ quan quản lý dễ bỏ sót các giao dịch có nguy cơ triệt tiêu đổi mới, thị trường sẽ suy giảm động lực cạnh tranh dài hạn. Hệ quả là các thương vụ quy mô nhỏ nhưng rủi ro lớn đối với ĐMST dễ bị bỏ qua và không được nhận diện kịp thời.
Điều đáng chú ý là chính những hạn chế bộc lộ trong các thương vụ như Meta – Instagram đã buộc châu Âu phải xem xét lại cách tiếp cận của mình. Dù trước đây đánh giá theo tiêu chuẩn tĩnh, nhưng EU là một trong những khu vực điều chỉnh sớm nhất, chuyển sang cách tiếp cận động – thông qua cơ chế Điều 22 EUMR và sau này là Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (DMA), cho phép xem xét các giao dịch giá trị nhỏ nhưng rủi ro lớn đối với đổi mới sáng tạo.
Theo Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (DMA)11, các “gã khổng lồ công nghệ” phải thông báo mọi thương vụ M&A theo kế hoạch cho EC, bất kể có đạt ngưỡng doanh thu theo Quy định Sáp nhập EUMR hay không. Cơ chế này hoạt động như một hệ thống cảnh báo sớm, cho phép EU xem xét không chỉ các chỉ số tài chính hay thị phần, mà cả năng lực R&D, danh mục bằng sáng chế, dữ liệu công nghệ, khả năng thương mại hóa và mối đe dọa tiềm ẩn đối với thị trường hiện tại của bên mua. Khi phát hiện rủi ro, EC có thể yêu cầu điều chỉnh điều kiện giao dịch hoặc chặn thương vụ trước khi hoàn tất.
Trong khi đó cách tiếp cận của Việt Nam vẫn còn lỗ hổng. Trong các thị trường ngách như nền tảng AI, công nghệ tài chính (fintech) hoặc công nghệ sinh học, cơ quan cạnh tranh thiếu dữ liệu độc lập để xác định quy mô thị trường hoặc sức mạnh công nghệ của các bên. Hệ quả là quá trình thẩm định gần như phụ thuộc hoàn toàn vào số liệu do doanh nghiệp cung cấp, làm tăng nguy cơ bỏ sót các thương vụ có khả năng triệt tiêu đổi mới.
Nói cách khác, Việt Nam đang đối mặt với thách thức kép: thiếu công cụ định lượng để đánh giá tác động ĐMST và thiếu cơ sở dữ liệu thị trường số để xác định đúng thị phần và sức mạnh công nghệ. Trong bối cảnh hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đang phát triển mạnh nhưng khung pháp lý vẫn chậm thích ứng, Việt Nam dần trở thành môi trường dễ phát sinh các thương vụ “mua lại sát thủ”.
Một mặt, pháp luật cạnh tranh hiện hành vẫn chưa công nhận yếu tố ĐMST như một tiêu chí độc lập mà chỉ đánh giá gián tiếp thông qua “hiệu quả kinh tế – kỹ thuật” hoặc “lợi ích kinh tế – xã hội”. Vì vậy các thương vụ thâu tóm startup hay doanh nghiệp nhỏ có thể dễ dàng lọt khỏi tầm kiểm soát nếu tổng thị phần sau sáp nhập chưa đạt ngưỡng thông báo.
Mặt khác, cách tiếp cận xác định thị trường liên quan chủ yếu dựa trên thị phần và cấu trúc thị trường hiện tại, chưa xem xét đúng mức, đầy đủ các yếu tố động của ĐMST như dữ liệu và công nghệ – những yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh dài hạn trong nền kinh tế số. Bên cạnh đó, năng lực giám sát các giao dịch công nghệ mới còn hạn chế, tạo kẽ hở cho các giao dịch tiềm ẩn rủi ro triệt tiêu cạnh tranh.
Giải pháp nào dành cho Việt Nam ?
Bài học kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc kiểm soát các thương vụ “mua lại sát thủ” không chỉ là vấn đề về quy mô doanh nghiệp mà là bài toán nhận diện rủi ro cạnh tranh động, và nguy cơ triệt tiêu đổi mới trong tương lai. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của EU bằng cách trao quyền chủ động hơn cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, cho phép yêu cầu thông báo hoặc điều tra các thương vụ có dấu hiệu tiềm ẩn nguy cơ triệt tiêu đổi mới sáng tạo, kể cả khi không đạt ngưỡng báo cáo theo Luật Cạnh tranh 2018.
Bên cạnh đó, quy trình thẩm định tập trung kinh tế cũng cần được cập nhật để phản ánh đúng bản chất của cạnh tranh trong thời đại số. Cần xây dựng bộ tiêu chí định tính về năng lực đổi mới sáng tạo, bao gồm khả năng R&D, danh mục bằng sáng chế, tốc độ tăng trưởng người dùng, khả năng tiếp cận dữ liệu và mức độ trùng lặp công nghệ giữa bên mua và bên bị mua. Các yếu tố này sẽ giúp cơ quan quản lý nhìn thấy cạnh tranh động, phát hiện sớm những giao dịch có khả năng kìm hãm sáng tạo trước khi hậu quả xảy ra.
ĐMST là mạch sống của nền kinh tế số. Nếu pháp luật cạnh tranh chậm thích ứng, những thương vụ “mua lại sát thủ” sẽ âm thầm triệt tiêu các ý tưởng đột phá trước khi chúng kịp trưởng thành. Các nghiên cứu kinh tế gần đây đều cho thấy sức mạnh của tăng trưởng nằm ở năng lực nuôi dưỡng đổi mới, chứ không phải kìm hãm nó. Vì thế, Việt Nam cần một tư duy pháp lý mới: coi bảo vệ ĐMST là trọng tâm, chứ không chỉ là hệ quả phụ của cạnh tranh. Bởi trong một thị trường công bằng, điều đáng sợ không phải là doanh nghiệp lớn, mà là khi cái mới không còn cơ hội để lớn lên.□
—-
*Về các tác giả: Nguyễn Huỳnh Vân Khanh, Trần Nguyễn Minh Ngân, Trần Tú Uyên, Lê Phạm Cẩm Vyđang công tác tại Khoa Luật, CELG, Đại học UEH.
Chú thích
1 Trái với cạnh tranh tĩnh liên quan tới giá cả, sản lượng, thị phần
2 Portuese, A. (2025). Litigating Vertical Mergers: Innovation Dynamics from Illumina-Grail. Washington and Lee University School of Law Scholarly Commons. https://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journals/waleelro82&div=15&id=&page=
3 OECD (2023). Theories of Harm for Digital Mergers. www.oecd.org/daf/competition/theories-of-harm-for-digital-mergers-2023.pdf
4 Teece, D. J. (2025). Understanding dynamic competition: new perspectives on potential competition, “Monopoly,” and market power. https://doi.org/10.2139/ssrn.5356023
5 Cunningham, C., Ederer, F., & Ma, S. (2018). Killer acquisitions. https://doi.org/10.2139/ssrn.3241707
6 Khoản 2 Điều 33 Luật Cạnh tranh 2018, doanh nghiệp phải thông báo tập trung kinh tế cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia khi đạt một trong các ngưỡng về tổng tài sản, tổng doanh thu, giá trị giao dịch hoặc thị phần kết hợp.
7 European Commission. (2004). The EC Merger Regulation. https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/ALL/?uri=celex%3A32004R0139
8 Căn cứ từ Điều 31 đến Điều 35 Luật Cạnh tranh 2018 và Điều 14, 15 Nghị định 35/2020/NĐ-CP.
9 Mark Glick and Catherine Ruetschlin. (2019). Big Tech Acquisitions and the Potential Competition Doctrine: The Case of Facebook. https://www.researchgate.net/publication/336746903_Big_Tech_Acquisitions_and_the_Potential_Competition_Doctrine_The_Case_of_Facebook
10 Yves Guéron. (2024). Killer Acquisitions. https://sje.ac.kr/xml/39721/39721.pdf
11 European Commission. (2022). Digital Markets Act: Contestable and fair markets in the digital sector and amending Directives. https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX%3A 02022R1925-20221012
Bài đăng Tia Sáng số 23/2025
