Nghĩ khác về “rủi ro đạo đức”
Có cách nào ngăn chặn việc các tổ chức và các quốc gia giàu có sẵn sàng thực hiện những hành vi “rủi ro đạo đức”, hủy hoại môi trường?

Rủi ro đạo đức là một khái niệm cơ bản trong lý thuyết kinh tế học, dẫu rằng không may là phần lớn mọi người đều ít biết về nó. Thuật ngữ này mô tả một tình huống mà một người hoặc tổ chức sẵn sàng thực hiện một hành vi mạo hiểm, dù về sau rất có khả năng nó sẽ dẫn đến những tác hại nghiêm trọng bởi họ biết rằng cái giá phải trả sẽ do người khác gánh hộ.
Thuật ngữ này nổi lên vào khoảng 350 năm trước ở châu Âu với sự phổ biến của ngành bảo hiểm. Ngày nay, một ví dụ mà người ta thường dùng để minh họa thuật ngữ này đó là một người sẵn sàng phóng nhanh vượt ẩu vì họ biết rằng nếu đâm vào xe khác, công ty bảo hiểm sẽ trả cho thiệt hại của cả phía anh ta lẫn người bị nạn. Nhưng thực ra đó là một ví dụ tồi, bởi một người có suy nghĩ bình thường sẽ không đời nào làm vậy vì anh ta thừa biết (a) Một cú tông xe tốc độ cao sẽ khiến anh ta thiệt mạng, và như thế thì công ty bảo hiểm sẽ chẳng giúp gì được (b) Nếu người bị tông tử nạn, người điều khiển phương tiện gây đâm xe sẽ bị kết án và vào tù vì tội “dùng xe cộ giết người”.
Một ví dụ đúng hơn về rủi ro đạo đức là từ giới doanh nghiệp, với mối liên hệ gần gũi với khái niệm tín chỉ carbon. Đó là trong các nước tư bản, những công ty tư nhân thường chịu sức ép từ các cổ đông, đặc biệt là từ những nhà đầu tư nắm phần lớn cổ phần, phải ưu tiên những lợi nhuận nhanh và ngắn hạn, kể cả điều đó có nghĩa là dự phần vào những việc về dài hạn sẽ tác động tồi tệ tới xã hội – ví dụ như xả ra một lượng lớn chất ô nhiễm vào không khí và nguồn nước gần đó. Rủi ro đạo đức trong trường hợp này đó là khi những phân tích về chi phí/lợi nhuận của công ty phớt lờ những tổn thất dài hạn bởi hậu quả sẽ không đặt trên vai của công ty, mà toàn bộ xã hội phải hứng chịu.
Có một sự đồng thuận rộng rãi trong giới khoa học đó là nếu chúng ta không làm chậm đáng kể tốc độ biến đổi khí hậu toàn cầu, chúng ta sẽ đối mặt với một tương lai không xa rằng phần lớn bề mặt Trái đất sẽ không còn sự sống.
Ở Mỹ, một ví dụ rõ nét về sự khác biệt giữa tư duy ngắn hạn và dài hạn có thể dễ dàng nhìn thấy bằng cách so sánh hai hình thức sở hữu đất rừng. Một tỉ lệ nhỏ đất đai thuộc về những người dân ở tầng lớp trung lưu. Ann vợ tôi và tôi sở hữu khoảng 150 hecta rừng cách Seattle một cuốc xe ngắn. Ưu tiên của chúng tôi, cũng như phần lớn những người sở hữu quy mô nhỏ, đó là tuân thủ những cách thực hành làm sao để rừng có thể tiếp tục tốt tươi sau nhiều thế hệ, vượt qua những biến đổi lường trước của khí hậu. Chúng tôi không quan tâm đến lợi nhuận ngắn hạn. Chúng tôi tin vào phương pháp tỉa thưa rừng – khai thác có chọn lọc (đem lại lợi nhuận khiêm tốn) và không bao giờ đốn hàng loạt – khai thác trắng (thường sẽ dẫn đến lợi nhuận lớn ngay lập tức).
Chúng tôi làm việc hết sức chặt chẽ với một tổ chức môi trường sẽ thừa kế đất của mình khi chúng tôi qua đời và chúng tôi chọn họ cũng dựa trên chuyên môn sâu sắc của họ trong ngành lâm nghiệp bền vững. Họ cũng đã bắt đầu thử nghiệm trên đất của chúng tôi, chẳng hạn như tỉa thưa lượng cây khác nhau trong các lần tỉa khác nhau để tìm ra mật độ cây thế nào là tối ưu để giữ ẩm khi hạn hán đang ngày càng diễn ra thường xuyên hơn. Sau đó, ở những khu vực cây thưa thớt, họ sẽ bắt đầu gieo hạt những giống cây từ các vùng xuôi xuống vĩ độ phía Nam, có khả năng chịu hạn tốt hơn là những giống cây bản địa vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của chúng tôi.

Ngược lại, một diện tích lớn đất rừng ở Mỹ đã được các quỹ phòng hộ (hedge fund) mua lại, một hình thức tài chính rất phổ biến trong giới đầu tư giàu có chỉ quan tâm tới những lợi nhuận ngắn hạn. Chiến lược của họ là khai thác trắng, “đốn nhầm còn hơn bỏ sót”, trồng lại theo cách nào đó rẻ tiền nhất có thể (không phải với các giống cây chịu hạn), và rồi lại bán đi. Trong những năm tới dự báo rằng sự tăng cường các cơn lũ lụt, gió lốc và mưa bão, hạn hán ngày một thảm khốc, cuối cùng sẽ càn quét những cánh rừng trên những mảnh đất đang phải chịu triết lý “giết nhầm còn hơn bỏ sót” của các quỹ phòng hộ.
Một trong những bất công căn bản của chủ nghĩa tư bản đó là những công ty tư nhân trên chặng đường theo đuổi lợi nhuận có thể tạo ra những hậu quả thảm khốc về dài hạn mà họ không bị buộc phải đền bù cho điều đó. Mục đích của việc nghĩ tới “rủi ro đạo đức” là phải thiết lập được một hệ thống bắt họ phải trả giá.
Một hệ thống tín chỉ carbon sẽ bắt đầu bằng việc một quốc gia quy định các công ty phải trả một khoản cho hoặc một tổ chức môi trường phi lợi nhuận, một cơ quan chính phủ hoặc một công ty tư nhân về tín chỉ carbon đủ tiền để họ bảo tồn nguồn khử carbon ở một nơi khác mà nếu không có tài trợ, nó sẽ biến mất và đem lại những ích lợi về môi trường khác để bù đắp những tổn thất mà công ty gây ra. Chẳng hạn, công ty đó có thể trả cho Chính phủ Brazil để thuê và trang bị đầy đủ cho những người kiểm lâm để bảo vệ một diện tích đất lớn trong rừng nhiệt đới Amazon khỏi các lâm tặc sẵn sàng phá rừng.
Lỗ hổng lớn nhất trong hệ thống tín chỉ carbon là việc tính toán sử dụng số tiền do các công ty phát thải trả phần lớn dựa trên những dự đoán sai lệch hoặc bất khả thi. Chẳng hạn, những công ty trên sẽ không ngờ được rằng Chính phủ Brazil, vì sợ bị lâm tặc tấn công hoặc vì tham nhũng, đã dùng tiền không phải để bảo vệ những khu vực đang bị đe dọa do khai thác gỗ trái phép, mà cho việc khác, chẳng hạn như để “tuần tra” những khu vực an toàn, không cần giám sát.
Vấn đề chính đối với tín chỉ carbon đó là việc ép buộc tuân thủ. Đó là đảm bảo tiền từ những tổ chức, cá nhân phát thải thực sự được sử dụng để đem lại lợi ích cho môi trường, theo một cách cấp thiết mà nếu không có số tiền đó thì không thể thực hiện được. Để tôi đưa ra một ví dụ khác cho việc lạm dụng số tiền thu được từ việc bán tín chỉ carbon: chẳng hạn như số tiền đó chuyển cho một khu nghỉ dưỡng phức hợp muốn chuyển sang điện mặt trời. Những người điều hành resort này giải thích rằng nguồn tài chính này sẽ dùng để chi trả cho quá trình chuyển dịch sang dạng năng lượng mới sạch hơn. Nghe thì hay. Nhưng năng lượng mặt trời đang trở nên rẻ hơn, và nhiều cơ chế đang được xây dựng để các cơ sở vận hành lưới điện mua lại điện thừa không sử dụng từ những khách hàng lắp đặt hệ thống pin mặt trời. Nếu resort này vốn đã lên kế hoạch từ lâu chuyển sang điện mặt trời vì lí do lợi nhuận, thì nguồn tiền từ tín chỉ carbon chỉ là thu nhập thêm cho resort chứ nếu không có nguồn tài chính này cũng chẳng ảnh hưởng gì đến thời điểm họ chuyển sang dùng điện mặt trời.

Một cơ chế khác, gọi là “Khế ước bảo tồn” cũng có cùng mục đích nhưng có cách thức ép tuân thủ hiệu quả hơn nhiều so với tín chỉ carbon. Nó cũng có thể dùng trong nhiều trường hợp khác – nhưng không áp dụng cho đất đai bên ngoài nước Mỹ và không tạo thêm nguồn tài trợ cho những dự án chuyển đổi năng lượng hoặc làm sạch môi trường. Ann vợ tôi và tôi đang triển khai cơ chế này cho bất động sản khu rừng mà chúng tôi sở hữu.
Một khế ước bảo tồn là một hợp đồng pháp lí ghi nhận rằng một mảnh đất có giá trị về mặt môi trường, chẳng hạn như một khu rừng đang phát triển khỏe mạnh, phải được tiếp tục gìn giữ theo hướng như vậy. Trong trường hợp là một khu rừng, điều đó nghĩa là các dự án xây dựng khu dân cư hay phát triển thương mại sẽ bị cấm hoàn toàn, dĩ nhiên là cả việc khai thác trắng. Một tổ chức phi lợi nhuận trong khu vực gọi là “tín thác đất đai” sẽ đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng hợp đồng này. Người chủ đất sẽ trả cho cơ quan tín thác đất đai một khoản phí đáng kể để (1) giúp chủ đất lo liệu về pháp lí và thay họ làm việc với các cơ quan nhà nước để được phê duyệt và ghi nhận hợp đồng này và (2) giám sát sự tuân thủ với các điều kiện ghi trong hợp đồng, thông qua việc thăm và điều tra hằng năm. Các điều kiện của bản khế ước bảo tồn, bao gồm cả nghĩa vụ của quỹ tín thác đất đai, đều được ghi rõ trong hợp đồng pháp lí, và quỹ tín thác đất đai có thẩm quyền để tiến hành những thủ tục pháp lí chống lại những người chủ tương lai của khu bất động sản nếu họ vi phạm những điều khoản trong khế ước.
Ý tưởng cốt lõi đằng sau tín chỉ carbon, cũng như của khế ước bảo tồn, đều tốt đẹp. Nếu mối quan tâm của công chúng đối với tín chỉ carbon trở nên sâu sắc và truyền thông tập trung chú ý vào sự cần thiết của các cơ chế triển khai tốt hơn nhiều so với hiện nay, sẽ tạo ra áp lực lên các quan chức phải thiết lập các phương thức ép buộc tuân thủ, bao gồm việc theo dõi cẩn thận, điều tra sâu sát việc thực thi và phạt nặng những dự án triển khai vẽ lên chỉ để kiếm tiền. Tôi hi vọng như vậy.
Người ta cũng có thể dẫn ra những lợi ích thực tế để kêu gọi những hệ thống triển khai tốt việc trung hòa carbon. Chẳng hạn, một hệ thống giúp tạo công ăn việc làm cho nhiều người kiểm lâm, tài trợ cho các chương trình làm sạch môi trường, hỗ trợ cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức phi chính phủ trong các nỗ lực ngăn ngừa việc xả thải và gây ô nhiễm, phá và trộm cây rừng, săn bắn động vật cần được bảo vệ…
Có một sự đồng thuận rộng rãi trong giới khoa học đó là nếu chúng ta không làm chậm đáng kể tốc độ biến đổi khí hậu toàn cầu, chúng ta sẽ đối mặt với một tương lai không xa phần lớn bề mặt Trái đất sẽ không còn sự sống. Sự thất bại trong việc lắng nghe lời cảnh báo của giới khoa học có thể được giải thích bằng một phân tích giai cấp. Chính các quốc gia giàu có vốn là thủ phạm chính trong việc gây ra những tổn thất về môi trường, nhưng thường những khu vực sẽ phải hứng chịu những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu dai dẳng hơn nhiều là các vùng nhiệt đới, nơi phần lớn các nước nghèo đang sống. Và, trong những nước giàu có nhất như Mỹ, những góc nghèo nhất của dân cư chính là những người phải tiếp xúc nhiều nhất với môi trường sống suy thoái và ô nhiễm.
Đặc biệt đáng lo ngại là sự trỗi dậy của phong trào phân biệt chủng tộc, bài ngoại và tham nhũng ở rất nhiều quốc gia giàu có, đặc biệt là Mỹ. Nhiệm kì của Trump đã trao những vị trí quyền lực nhất trong chính phủ cho những tỉ phú như Elon Musk để đổi lại hàng trăm triệu USD họ đã tài trợ để ông chiến thắng trong kì bầu cử, Cách hành xử của Trump chính xác là hối lộ, với bất kì định nghĩa thông thường nào, và điều đó đáng lẽ là phi pháp bậc nhất ở rất nhiều quốc gia – nhưng ở Mỹ thì không, vốn có những luật rất yếu trong việc đối phó với những tội phạm trí tuệ cao của những người giàu có. Trump đã quy tụ những người ủng hộ mình nhờ vào các khẩu hiệu đậm tính chủ nghĩa dân tộc cực đoan và liên tục thể hiện sự miệt thị với những người dân ở các khu vực khí hậu nhiệt đới.
Rất nhiều quốc gia ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latin đang đối mặt với những tác hại không thể đo đếm được do Mỹ và nhiều quốc gia giàu có khác gây ra bởi sự phân biệt chủng tộc, tham nhũng và sự thất bại trong việc đền bù những tổn thất gây ra bởi họ đã góp phần lớn vào biến đổi khí hậu. Những quốc gia ở Nam và Đông Nam Á, châu Phi, Trung và Nam Mỹ, Caribe cần phải gạt sang một bên những khác biệt là cùng hợp sức trước vấn đề rủi ro đạo đức này. Họ có thể bắt đầu bằng cách áp đặt một hệ thống tín chỉ carbon lên tất cả những công ty đa quốc gia đang hoạt động trên chính đất nước mình.□
—-
GS Toán học ĐH Washington.
Hảo Linh dịch
Bài đăng Tia Sáng số 4/2025