Nơi đất liền gặp biển: Bảo tồn di sản văn hóa vùng biển đảo Đông Bắc (Kỳ 2)
Không gian văn hóa của vùng biển Đông Bắc là hệ quả của sự thích ứng với hệ sinh thái, của quá trình tiếp xúc và tương tác giữa các nhóm cư dân từ trong lịch sử đến hiện tại. Vậy chúng ta phải ứng xử thế nào với di sản đó?
Tháng 9/2022 quay lại Hà Cối thăm phố xưa. Mình đã đến nơi này 43 năm trước, và từ năm 2012 đến giờ, luôn canh cánh bên lòng một khu phố cổ kiến trúc kiểu Hoa-Việt, nhà có gác xép, cửa là những tấm ván gỗ có then cài bên trong. Phía ngoài là đường đá, tường đá, rặt một thứ đá cuội vớt từ dưới sông Hà Cối lên, làm cho nó một diện mạo khác người, một vẻ đẹp rất riêng. Lần này từ cao tốc bò xuống, mãi mới tìm ra đường vào. Phố đã khác xưa. Cho xe đỗ phía đầu cầu khi xưa, cái sân rộng mênh mang, có chị bán nước giải khát núp dưới gốc cây. Vẫn còn đây ngôi nhà ba tầng Vạn Sinh Đường xây từ 1928, rong rêu phủ đầy. Nhìn dấu ấn thời gian phủ lên bóng ngôi nhà hoang, lòng buồn man mác nghĩ về chủ nhân của ngôi nhà xưa kia giờ đang ở nơi nao?
Đi vào phố cổ, nhưng dài cổ cũng chẳng thấy ngôi nhà cổ nào. Vòng sang phố Trần Khánh Dư, nơi có bức tường đá ông sư, dấu tích của kiến trúc xưa, mãi mới nhận ra, thay cho bức tường đá là một dãy tường gạch mới xây lại thẳng tắp. Dấu tích cổ xưa của khu phố cổ đã biến mất tăm tích, không thể nhận ra. Loay hoay một lúc, đi về phía nhà thờ cổ. Ngôi nhà kế bên có con chó đá canh cửa vẫn còn đấy, nhà thờ dường như cũng đang sống mòn. Ngó nghiêng một lúc, bác bán hàng đối diện nhà thờ ra hỏi han rồi mở cửa cho vào bên trong. Ngôi nhà nguyện với bàn ghế đơn sơ, tượng chúa uy nghiêm và một dãy micro treo trên nóc nhà thờ, chắc dành cho dàn đồng ca của nhà thờ hát thánh ca những ngày lễ… Tự an ủi ít ra thì vẫn còn ngôi nhà thờ nhỏ để tin rằng Hà Cối đã từng một thời là khu phố cổ kính rất đẹp với nền văn hóa Hoa-Việt hỗn dung.
Phải làm gì để giữ những nét đẹp của không gian văn hóa mở ở vùng biển đảo Đông Bắc?
Không gian văn hóa đa tộc người
Vùng duyên hải Đông Bắc bộ đã từng là địa bàn cư trú của nhiều nhóm tộc người khác nhau. Chính quá trình tiếp xúc, cộng cư và vay mượn đã tạo cho văn hóa vùng biển đảo Đông Bắc những nét riêng. Tuy nhiên, các biến động lịch sử dữ dội ở vùng đất này đã dẫn đến những xáo trộn và thay đổi đáng kể về thành phần tộc người, một lớp văn hóa mới, văn hóa Việt đồng bằng đã dần chiếm ưu thế. Cuộc xung đột biên giới năm 1979 dẫn đến việc ra đi hàng loạt của các nhóm gốc Hoa. Hiện nay, phần lớn các nhóm thiểu số ở vùng Đông Bắc tập trung ở dải đất ven bờ thuộc tỉnh Quảng Ninh và một bộ phận nhỏ sống trên các đảo. Các nhóm tộc người này bao gồm Kinh (Việt), Dao (Thanh Y và Thanh Phán), Tày (Thổ), Sán Dìu, Sán Chay (Cao Lan và Sán Chỉ), Hoa (Hán, Ngái). Các nhóm còn lại có dân số rất ít, chỉ chiếm dưới 2% dân số các nhóm thiểu số trong tỉnh.
Người Hoa ở vùng biên giới Đông Bắc không phải là một nhóm đồng nhất về tộc người mà bao gồm nhiều nhóm nhỏ có nguồn gốc lịch sử và tiếng nói khác nhau, nhập cư vào khu vực biên giới Đông Bắc ở những thời điểm khác nhau. Họ phần lớn đến từ hai tỉnh giáp ranh là Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc) từ giữa thế kỷ 19, sau cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc bị nhà Thanh dập tắt (1864). Khi nhập cư vào Việt Nam, một bộ phận đông đảo tự nhận mình là Sín lẩu (người làm ruộng), ưa thích lối sống quần tụ và lập thành các làng để định cư. Cách gọi này để phân biệt với một nhóm khác, không đông bằng, là những lưu dân (làu mằn), tức người gốc Hoa không có nơi định cư ổn định, chủ yếu sống về nghề buôn bán ở các thị trấn và thị tứ trong khu vực. Nhóm làm nghề buôn bán đa phần là người nói tiếng Hắc Cá, còn gọi Ngái Hắc Cá, hay Khách (Tuấn Quỳnh, 1974, tr.26-28) và một bộ phận nhỏ hơn nói tiếng Quảng Đông và Phúc Kiến. Bên cạnh đó, các nghiên cứu của Viện Dân tộc học từ những năm 1970 cho thấy các nhóm gốc Hoa cư trú ở vùng ven biển Quảng Ninh thuộc về hai nhóm dân tộc có tên tự nhận là Ngái Nhằn (người Ngái) và Hạc Nhằn (người Khách). Ngoài ra, Nguyễn Trúc Bình (1972, 1973) và Diệp Trung Bình (1985) cũng mang lại những phát hiện thú vị về một nhóm gốc Hoa khác làm nghề đánh cá ở vùng cửa sông ven biển Quảng Ninh và các đảo trên vịnh Bái Tử Long.
Vị thần tối linh được các nhóm gốc Hoa tôn thờ ở khắp vùng ven bờ Đông Bắc là Quan Thế Âm Bồ tát, một nhân vật truyền thuyết trong đạo Phật, tượng trưng cho lòng từ bi, độ lượng và công bằng. Khảo sát tất cả các làng gốc Hoa cư trú ven biển các huyện Đầm Hà và Hà Cối đều thấy có miếu thờ Quan Âm, trong khi ở một số làng khác, còn thấy phối thờ Thánh Đế quân (Quan Vân Trường). Ở thị trấn Đầm Hà, còn thấy có sự hiện diện của miếu thờ Bắc Đế quân Huyền Vũ, một vị thần trong Đạo giáo, nhưng không thấy phổ biến ở nhiều nơi khác. Quan Thế Âm Bồ tát không chỉ được tôn thờ ở đền miếu cộng đồng, mà cũng chiếm một vị trí tôn nghiêm trên ban thờ tổ tiên của các gia đình Ngái Hắc Cá.
Một điểm đáng lưu ý nữa là có một bộ phận cư dân, cả người gốc Việt và gốc Hoa, sống ở vùng cửa biển Hà Cối – Móng Cái đã cải đạo theo Thiên Chúa giáo. Các nguồn tài liệu lưu trữ cho thấy cuối năm 1905, Cha Ceslas Bardol được dòng tu Dominican của Pháp cử đến đây để chăm sóc việc đạo cho dân địa phương. Ông đã xin nâng cấp ngôi nhà nguyện ở cửa biển Hà Cối. Trong bức thư gửi về Pháp xin nâng cấp nhà thờ, ông cho biết vào năm 1905, vùng cửa biển này có khoảng 1.500 giáo dân cả gốc Việt và gốc Hoa (Les Missions Catholiques, 1905). Dưới thời Pháp thuộc, các cha cố dòng Thánh Đa Minh đặc biệt quan tâm mở mang “ngôi nhà của Chúa” ở ngay trên vùng đất biên cương này, bất chấp chính sách cấm đạo ngặt nghèo của nhà Nguyễn. Theo nguồn tài liệu của nhà thờ (Nhà thờ Trà Cổ, 2017),1 năm 1857, lần đầu tiên Công giáo đã đặt được chân lên đây, đánh dấu bằng việc dựng lên một ngôi nhà thờ nhỏ bằng gỗ trên khu đồng nhãn (Đông Thịnh), sau nhanh chóng phải dỡ bỏ và cất giấu vì chiếu chỉ cấm đạo của Vua Tự Đức mới ban ra. Khi tình hình cấm đạo tạm lắng, Cha Cấp (không rõ tên thánh) vận động giáo dân chuyển nhà thờ về địa điểm mới ở xóm chài Tràng Lộ và dựng lên ngôi nhà thờ mới bảy gian bằng gỗ. Mãi cho đến năm 1913, Cha Baro Tràng Nghiêm đã xây cất nơi đây thành ngôi nhà thờ chính. Năm 1918, nhà thờ khởi công xây cất tháp chuông cao 90 mét, nhưng phải đến nhiều năm sau, với công sức của nhiều cha cố và giáo dân địa phương, ngôi nhà thờ mới được hoàn thiện vào năm 1926. Năm 2017, ngôi nhà thờ cổ kính này lại một lần nữa bị hạ giải để khoác lên mình một hình hài mới. Hiện nay, nhà thờ Trà Cổ là nhà thờ chính của xứ đạo Trà Cổ với khoảng hơn hai ngàn giáo dân, chủ yếu là ngư dân sống trong các làng chài ven biển Móng Cái, với 7 họ đạo.
Trong khi đó, quan sát lối sống của các cộng đồng cư dân sống trong hệ sinh thái ven biển Đông Bắc, tôi nhận thấy trong lịch sử, có nhiều làng của người Việt cư trú tại các vùng cửa sông, ven biển, được gọi là các làng “thủy cơ”. Trong “Việt Nam Văn hóa sử cương”, Đào Duy Anh (1938) đã có những ghi chép quan trọng về nghề chài lưới và cuộc sống của các làng nổi ở vùng cửa sông ven biển, gọi là làng “thủy cơ”. Ông cho biết: “Ở nước ta có nhiều làng ở trên mặt nước, gọi là làng thủy cơ hay làng chài, gồm những người làm nghề chài lưới hay chở đò. Làng thủy cơ thường là một đơn vị hành chính độc lập, có đủ tổ chức như một xã thôn, hoặc thống thuộc vào một tổng nào đó với các làng ở trên cạn để tiện cho việc thu thuế mà không có liên hệ gì khác”. Theo nhận xét của Đào Duy Anh thì dân các làng thủy cơ không phải là một thứ dân đặc biệt khác hẳn với dân ở cạn. Hai nhóm cư dân này cũng không có thói quen kỳ thị nhau, mà một người làng chài nếu có cơ hội thì thường vui lòng bỏ nghề cũ mà tậu vườn mua ruộng để sinh sống.
Khi nghiên cứu thực địa ở vùng cửa sông ven biển Hà Cối (Hải Hà, Quảng Ninh ngày nay), tôi đã tìm hiểu lối sống của làng thủy cơ My Sơn, vốn làm nghề chài lưới ở vùng cửa sông ven biển và quanh các đảo trên vịnh Bái Tử Long, được sách Đồng khánh Dư địa chí của triều Nguyễn nhắc đến. Các bản đồ do người Pháp vẽ trước 1900 cho thấy làng My Sơn, người Pháp gọi là làng An Nam (để phân biệt với phần lớn các làng của người Hoa xung quanh), ở về bên trái cửa sông Hà Cối hướng ra biển. Theo ký ức của những người cao niên vốn là dân làng thủy cơ thì không ai trong làng có đất đai. Dù cả làng sống trên thuyền, lênh đênh sóng nước, đi theo các luồng cá nhưng làng cũng có một ngôi đình thờ cúng thần bảo hộ ngay trên thuyền. Mãi đến cuối thế kỷ 19, khi người Pháp chiếm đóng miền Đông thì làng My Sơn mới chuyển đình lên một bãi nổi bên cửa sông Hà Cối, dân địa phương gọi mảnh đất này là Đầu Rỏn, là nơi có nguồn nước ngọt quý giá để dân thủy cơ lấy nước mỗi khi ra khơi dài ngày. Theo các cụ, đình My Sơn dù đã ở trên cạn nhưng cũng phải di chuyển nhiều lần, do vị trí neo đậu của làng thay đổi. Gần đây, năm 2012, đình My Sơn được dựng lại ở vị trí mới, nằm cạnh Khe La, hướng quay ra biển, thuộc địa bàn thôn Nam của xã Phú Hải, huyện Hải Hà. Do không còn giữ được sắc phong, các vị cao niên chỉ nhớ đình làng thờ Thành Hoàng vạn cảnh, vị thần canh giữ các cửa sông, cửa biển. Lễ hội Đình làng My Sơn được diễn ra từ ngày 16 đến ngày 20 tháng Giêng hằng năm. Hiện tại, Thư viện Khoa học Xã hội vẫn còn lưu bản Hương ước cải lương của làng My Sơn (Hà Cối) lập năm 1937.
Lịch sử dân gian cũng cho thấy, trên vịnh Bái Tử Long, Hạ Long và Lan Hạ đã từng có nhiều làng chài, chẳng hạn các làng Ba Hang, Hoa Cương, Cửa Vạn, Ba Hầm, Cống Tàu, Cống Đầm, Vung Viêng. Ở vùng đảo xa như Cô Tô, Bạch Long Vĩ và trên vịnh Lan Hạ xung quanh đảo Cát Bà cũng có những làng nổi như vậy. Dù tụ họp từ nhiều nơi về thành làng, các ngư dân này có những phong tục tập quán, đời sống văn hóa tương đối giống nhau. Theo ký ức của người dân, cư dân các làng nổi đều có nguồn gốc từ các làng Giang Võng, Trúc Võng và Hà Nam (huyện Yên Hưng, Quảng Ninh ngày nay), số ít ngư dân còn lại đến từ khu vực Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Hải Dương. Làng không có nơi tụ cư ổn định. Các hộ ngư dân thường chọn khu vực có nhiều hòn đảo vây quanh, là nơi kín gió để neo đậu.
Tuy dân làng chài không có ruộng đất trên bờ nhưng làng cũng có một hệ thống quản trị giống như các làng nông nghiệp với bộ máy cai trị gồm hội đồng kỳ mục và lý dịch. Hội đồng lý dịch gồm có lý trưởng, phó lý cùng các chân giúp việc như xã đoàn, hộ lại, thủ quỹ, thư ký. Các làng chài đều phải có đăng ký sổ thuyền. Cuộc sống trôi nổi theo luồng cá đi, nhưng người dân các làng chài cũng tích lũy được một lượng tri thức phong phú về biển, kỹ năng đánh bắt, nuôi trồng, tránh gió bão, đóng thuyền, làm ngư cụ và một đời sống tâm linh riêng. Đặc biệt, các hình thức văn nghệ dân gian như hát giao duyên, hò biển, lễ hội truyền thống rất phong phú và vẫn đang được duy trì.
Cuộc sống các làng nổi đã có nhiều thay đổi sau khi nhà nước thống nhất quản lý vịnh và khuyến khích các làng nổi định cư trên bờ (Lê Duy Đại chủ biên, 2021). Những người còn lại chuyển từ đánh bắt sang nuôi trồng thủy hải sản nhằm phục vụ nhu cầu của khách du lịch. Theo các hộ ngư dân, thu nhập từ nuôi trồng thủy hải sản và cá lồng bè đã mang lại khoảng 80% thu nhập trong khi hoạt động đánh bắt và dịch vụ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong thu nhập của hộ gia đình.
Ứng xử thế nào với di sản văn hóa vùng biển đảo Đông Bắc?
Vùng ven bờ và biển đảo được cho là một không gian mở với những tiềm năng kinh tế lớn, trong đó các dự án phát triển có thể được phân bố theo không gian, bao gồm không gian ven bờ, không gian biển đảo và không gian đại dương. Vùng biển đảo Đông Bắc đặc trưng bởi hệ thống hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó hầu hết là những đảo nhỏ có diện tích dưới nửa cây số vuông, phân bố trên các vịnh và vũng nhỏ, tạo thành một trong những kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp của thế giới. Vùng biển này cũng tiếp nối với biển đảo của nước láng giềng Trung Quốc, là cửa ngõ đi ra Biển Đông và dẫn vào các trục đường hàng hải lâu đời của thế giới. Đặc điểm này làm cho các quy hoạch phát triển vùng biển Đông Bắc tập trung khai thác các thế mạnh địa – kinh tế của tiểu vùng và kết nối với chiến lược biển quốc gia đã được các nghị quyết của Đảng chỉ ra.
Có hai vấn đề làm cho vùng biển này phải chịu sức ép lớn của các dự án phát triển. Thứ nhất, nhu cầu ngày càng tăng về khai thác nguồn tài nguyên biển và các nguồn lực khác cho phát triển gây sức ép mạnh mẽ lên việc sử dụng không gian ven bờ và hải đảo. Thứ hai, vùng ven biển được các nhà hoạch định chiến lược biển coi là bàn đạp để tiến ra biển cả, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động trên biển. Từ đây, các quy hoạch phát triển chuỗi đô thị ven biển, các trung tâm kinh tế, cảng biển, vận tải biển và các dự án du lịch tầm cỡ có xu hướng dồn vào khu vực này. Thêm vào đó, vùng Đông Bắc có đường biên giới chung với nước láng giềng Trung Quốc, cả trên biển và trên đất liền. Sức ép từ một thị trường đang bùng nổ với các dự án phát triển hạ tầng khu vực như Sáng kiến Vành Đai – Con đường và Con đường Tơ lụa trên biển nhằm kết nối Trung Quốc với Đông Nam Á qua vùng biển Đông Bắc đặt các dự án phát triển trong tình thế phải kết hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng. Điều này đặt ra vấn đề cần phải xem xét liệu các quy hoạch phát triển không gian biển đảo vùng Đông Bắc có tương thích với không gian biển đảo hay xung đột với các mục đích sử dụng khác nhau, cũng như giữa hoạt động kinh tế với bảo vệ môi trường và bảo tồn tính đa dạng văn hóa của các cộng đồng cư dân sinh sống trong vùng. Ý tưởng sử dụng không gian ven biển và hải đảo cho nhiều mục đích một mặt có thể làm tăng hiệu quả không gian, mang lại lợi ích kinh tế, môi trường và văn hóa – xã hội. Ngược lại, tình trạng sử dụng quá tải nhiều hoạt động trên cùng một không gian biển đảo có thể sẽ gây ra xung đột giữa các chương trình phát triển và hậu quả là môi trường sinh thái và nhân văn có thể bị tàn phá nặng nề.
Trong định hướng phát triển vùng biển Đông Bắc từ Quảng Ninh đến Hải Phòng mà Bộ Kế hoạch Đầu tư khởi thảo (Hoàng Ngọc Phong, 2012), có bốn lĩnh vực chính được xác định, bao gồm: (1) Phát triển ngành công nghiệp đóng tàu; (2) Cảng biển; (3) Khai thác dầu khí và dịch vụ dầu; (4) Khai thác tổng hợp tài nguyên du lịch biển đảo. Quy hoạch phát triển du lịch vùng đồng bằng và duyên hải vùng Đông Bắc cũng đã được Chính phủ phê duyệt. Về mặt tổ chức không gian, khu Vân Đồn (Quảng Ninh) và Đình Vũ (Hải Phòng) sẽ trở thành khu kinh tế tổng hợp, là trung tâm hướng ra biển của phía Bắc Việt Nam theo chiến lược phát triển “Hai hành lang một vành đai kinh tế”, đó là hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng và Vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ. Tuyến kinh tế ven biển Hạ Long – Móng Cái được xác định có chức năng giao lưu quốc tế, phát triển thương mại, du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế, đồng thời là tuyến trục quan trọng để đối ứng với phía Trung Quốc. Các ngành kinh tế quan trọng của tuyến kinh tế này là thương mại, du lịch, cảng biển, khai thác nuôi trồng hải sản, công nghiệp đóng tàu và công nghiệp chế biến. Cùng với việc định hình các trung tâm kinh tế ven biển, mạng lưới đô thị ven biển cũng được quy hoạch lại, theo định hướng phát triển các đô thị vừa và nhỏ dọc ven biển và theo các tuyến, hình thành một mạng lưới các đô thị vệ tinh để hỗ trợ các đô thị trung tâm. Bên cạnh định hướng phát triển ven biển, chính sách khuyến khích di dân ra các đảo, đặc biệt các đảo tiền tiêu để phục vụ phát triển bền vững và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng biển Đông Bắc đã được xác định (Lê Văn Hương, 2020).
Vùng ven bờ biển đảo Đông Bắc được xác định là trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc gia, là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế rầm rộ như một kết quả đương nhiên, các dòng chảy dân số sẽ gia tăng không ngừng do người di cư từ trong đất liền tràn về đây tìm kiếm cơ hội. Các hoạt động khai thác nguồn tài nguyên sinh thái vùng ven bờ, biển đảo và phát triển đô thị sẽ tạo ra những xung đột sâu sắc. Trước hết, đó là tình trạng ô nhiễm vùng ven bờ tăng lên. Thứ hai, nông nghiệp và ngư nghiệp vùng đất ngập nước ven biển và các dự án phát triển làm biến dạng hệ sinh thái trên quy mô rộng. Nước thải từ các khu đô thị và công nghiệp đổ xuống vùng vịnh mà không được xử lý làm cho nghề cá và nuôi trồng thủy hải sản sa sút và các bãi biển thu hút khách du lịch cũng đang bị xuống cấp trầm trọng. Thêm nữa, tình trạng quản lý vùng ven biển theo địa bàn hành chính cũng tạo ra những xung đột trong hoạt động kinh tế và phát triển cấp địa phương. Chẳng hạn, hoạt động du lịch trên biển của các tàu chở khách tham quan vịnh của Hải Phòng chỉ được phép hoạt động trên vùng vịnh Lan Hạ phân cấp cho thành phố Hải Phòng quản lý mà không được đi sang vùng vịnh Hạ Long do tỉnh Quảng Ninh quản lý.
Để giải quyết tình trạng xung đột do cạnh tranh phát triển và tận dụng tối đa nguồn tài nguyên sinh thái vùng ven bờ, cần phải cấp bách xây dựng một hệ thống quản lý được thế giới thừa nhận tính hiệu quả. Đó là chiến lược quản lý tổng hợp vùng ven bờ, gọi tắt là ICZM (Integrated Coastal Zone Management). Quản lý tổng hợp ven bờ thực chất là hoạt động đánh giá toàn diện, đặt ra các mục tiêu, quy hoạch và quản lý các hệ thống tài nguyên ven biển, có xét đến các yếu tố lịch sử, văn hóa và truyền thống, điều hòa các lợi ích do xung đột giữa các ngành nhằm đạt được sự phát triển bền vững (Cicin-Sain and Knecht, 1998). Quản lý tổng hợp vùng ven biển cần tập trung vào sự liên kết hoạt động của các ngành kinh tế và văn hóa. Hoạt động này không thay thế cho quản lý theo ngành dọc của từng lĩnh vực.
Đối với vùng ven biển Đông Bắc, quản lý tổng nghiệp vùng ven biển phải được hiểu là sự phối hợp trong chính sách quốc gia, đảm bảo thống nhất giữa cấp quản lý ở Trung ương và các cấp tỉnh, huyện, giữa các ngành kinh tế và văn hóa – xã hội, giữa các tổ chức chính phủ và phi chính phủ mà cấp thực hiện cuối cùng phải là các địa phương huyện và xã. Chiến lược phát triển ở khu vực này chỉ đạt được sự bền vững với hai điều kiện: (1) Đảm bảo sự tham gia và cam kết của các cộng đồng địa phương vùng ven bờ để tránh tình trạng cục bộ địa phương trong việc chiếm hữu và khai thác nguồn tài nguyên ven biển; (2) Tôn trọng lối sống, nguồn sinh kế, tính đa dạng văn hóa của các cộng đồng cư dân ven bờ và hải đảo.
*****
Vùng biển Đông Bắc là một không gian mở, trong đó sự tương tác và tiếp xúc giữa các nhóm cư dân và tộc người đã diễn ra mạnh mẽ từ lâu trong lịch sử. Văn hóa biển đảo vùng Đông Bắc được kết tinh bởi tính đa dạng về tộc người và lối sống của một vùng đất phên giậu quốc gia. Giữa vùng ven bờ và hải đảo tạo thành một không gian văn hóa thống nhất và năng động, không chỉ bó hẹp trong phạm vi dải đất ven bờ và gần bờ mà hơn thế, tương tác với một khu vực rộng lớn hơn trên các trục đường hàng hải đã hình thành từ lâu trong lịch sử. Nghiên cứu này gợi ý rằng nhận diện văn hóa biển không chỉ là những kỹ năng và phương tiện đánh bắt thủy hải sản mà còn là sự phát triển của hệ thống cảng và các đô thị ven biển như là nền tảng cho hoạt động giao thương và vận tải trên biển.
Sự phát triển gần đây ở vùng biển đảo Đông Bắc nhằm khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên chung ven bờ đang đặt ra những thách thức mới, đặc biệt là nguy cơ xung đột giữa các ngành kinh tế với nhau, giữa phát triển và bảo tồn sự đa dạng các giá trị văn hóa của vùng biển đảo. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ và hải đảo là giải pháp thích hợp, khả thi để đảm bảo sự hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, nhằm đạt được sự phát triển bền vững cho tiểu vùng và cả khu vực. Trong những nỗ lực phát triển và bảo tồn văn hóa biển đảo, các ngành khoa học xã hội và nhân văn có một vị trí quan trọng trong việc cung cấp thông tin và kiến thức về lịch sử kết nối, tương tác giữa các nền văn hóa, những dòng chảy của con người và hàng hóa thông qua các “xa lộ” trên biển, tri thức phong phú của con người về hệ sinh thái, quá trình chinh phục những thách thức của tự nhiên để sinh tồn và phát triển trong không gian biển đảo.□
———————————————-
Chú thích
1 “Nhà thờ Trà Cổ, Móng Cái”, Nguyễn Đức Hùng viết theo tài liệu ghi chép của cụ Trùm Toản, xóm đạo Trà Cổ. Xem: https://giothanhle.net/gio-le/nha-tho-tra-co-mong-cai/
Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB. Thống kê, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2014), Việt Nam Văn hóa Sử cương (Quan Hải Tùng Thư, 1938), NXB. Nhã Nam (in lại), Hà Nội.
3. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên, 2020), Văn hóa biển đảo Việt Nam, 9 tập, NXB. Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
4. Berry, J. W. A. (1979), “Cultural Ecology of Social Behavior”, in Berkowitz, Leonard (ed.): Advances in Experimental Social Psychology, Vol. 12: Academic Press, pp. 177-206.Diệp Trung Bình (1985), “Vài nét về đời sống của ngư dân vùng biển Đông Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 15-20.
5. Nguyễn Trúc Bình (1973b), “Các nhóm Hoa và vấn đề thống nhất tên gọi”, Thông báo Dân tộc học, Tập 3, tr. 95-98.
6. Nguyễn Trúc Bình (1972), “Về tộc danh Đản, Sín trong nhóm người Hoa ở vùng ven biển Quảng Ninh”, Thông báo Dân tộc học, Tập 1, tr. 9-97.
7. Nguyễn Ngọc Chất, Vũ Quốc Hiền, Lê Ngọc Hùng (2008), Nghiên cứu Hệ thống di tích thương cảng Vân Đồn, thực trạng và những vấn đề, Thông báo Khoa học, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, tr. 129-143.
8. Cicin-Sain, B. and Knecht, R. W. (1998), Integrated coastal and ocean management: concepts and practices, UNESCO (02)/C652, Washington, D.C, Island Press.
9. Đại Việt sử ký toàn thư (1993), Bản dịch của Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1985-1992), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Lê Duy Đại (Chủ biên, 2021), Định cư – Văn hóa của cư dân mặt nước ở vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và đầm phá Tam Giang – Cầu Hai (Thừa Thiên Huế), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Frake, Charles O. (1962), “Cultural Ecology”, American Anthropologist, No.64.1, pp. 53-59.
12. Goscha, Cristopher (2000), “The borders of Vietnam’s early wartime trade with Southern China: A contemporary perspective”, Asian Survey, No. 40, Vol.6, pp. 987-1018.
13. Nguyễn Mạnh Hà và cộng sự (2022), “Nghiên cứu đa dạng sinh học các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển Đông Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khí tượng Thủy văn, số734, tr. 13-27.
14. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2019), Biển trong cấu trúc văn hóa Việt Nam, trên trang https://thanhdiavietnamhoc.com/bien-trong-cau-truc-van-hoa-viet-nam/ (Truy cập ngày 6/2/2024).
15. Phạm Xuân Hoàng (2015), “Văn hóa biển Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 345, tr.3-5.
16. Hội đồng Chính phủ (1966), Quyết định số 76, ký ngày 21/4/1966, Về việc sửa đổi tên các đảo, eo, vụng, luồng, lạch trên mặt biển.
17. Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh Quảng Ninh (2021), Địa danh Quảng Ninh xưa và nay, Nxb. Hồng Đức.
18. Trần Quốc Hùng (2014), Nghiên cứu vấn đề tộc người ở Quảng Ninh, trên trang https://www.quangninh.gov.vn/bannganh/bandantoc (Truy cập ngày 6/2/2024).
19. Hương ước xã My Sơn (1937), Bản in sao từ Thư viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Lê Văn Hương (Chủ trì, 2020), Luận cứ khoa học và giải pháp bố trí dân cư phục vụ phát triển bền vững, đảm bảo an ninh-quốc phòng hệ thống biển đảo Việt Nam, Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia KC.09/16-20.
21. Nguyễn Văn Kim (2016), Vân Đồn, Thương cảng quốc tế của Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22. Trần Trọng Kim (1968), Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
23. Les Mission Catholiques (1905), Bullettin Heb Domadaire Illustre L’ouever de la Propagration de la Foi; Tonkin Oriental, Tome 3. Paris.
24. Li Tana (2006), “A view from sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnamese coast”, Journal of Southeast Asian Studies, National University of Singapore, vol 37 (1), pp. 83-102.
25. Từ Thị Loan (Chủ biên, 2020), Văn hóa biển đảo vùng Đông Bắc Bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật.
26. McFadzean, A.J.S. and Todd, D. (1971), “Cooley’s anaemia among the Tanka of South China”, Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene, No 65, pp. 59-62.
27. Momoki, Shiro (1998), “Đai Viet and South China Sea trade from the 10th to the 15th century”, Crossroads, No.12, Vol.1 (1998), pp. 1-34.
28. Nelson, Stephen A. (2018), Coastal Zones, 23-Apr-2018, Tulane University https://www2.tulane.edu/~sanelson/Natural_Disasters/coastalzones.htm.
29. Hoàng Ngọc Phong (2012), “Tổ chức không gian biển trong chiến lược biển Việt Nam”, Tạp chí Hàng Hải Việt Nam, số 8, tr. 8-10.
30. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, NXB. Thuận Hóa, Huế.
31. Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đồng Khánh Địa Dư Chí, Bản dịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, NXB. Thế giới, Hà Nội.
32. Quốc triều Hình luật (Luật hình triều Lê) (1991), bản dịch Viện Sử học, NXB. Pháp lý, Hà Nội.
33. Đặng Ngọc Thanh (Chủ biên, 2007), Sách đỏ Việt Nam, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
34. Trần Đức Thạnh (Chủ biên) Lê Đức An, Nguyễn Hữu Cử, Trần Đình Lân, Nguyễn Văn Quân, Tạ Hòa Phương (2012), Biển đảo Việt Nam – Tài nguyên vị thế và những kì quan địa chất, sinh thái tiêu biểu, NXB. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
35. Nguyễn Duy Thiệu (2015), “Nhận diện văn hóa biển đảo Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96), tr. 78-88.
36. Ngô Đức Thịnh (2018). Truyền thống văn hoá biển cận duyên của người Việt. Văn hóa Nghệ thuật, số 317.
37. Đỗ Lai Thúy (2021), «Tâm thức biển của người Việt: một cái nhìn văn hóa – lịch sử”. Tạp chí điện tử Người đô thị, trên trang https://nguoidothi.net.vn/tam-thuc-bien-cua-nguoi-viet-mot-cai-nhin-van-hoa-lich-su-26907.html (Truy cập ngày 10/10/2022).
38. Lê Đức Tố (2007), Hệ thống đảo ven bờ Việt Nam, tiềm năng và triển vọng, trên trang https://www.rimf.org.vn/bantin/chitiet/HethongdaovenboVietNamtiemnangv224trienvong (Truy cập ngày 6/2/2024).
39. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
40. Vũ Anh Tú (Chủ biên, 2020), Văn hóa biển đảo vùng Bắc Trung Bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
41. Trương Nhân Tuấn (2013), Biên giới Việt – Trung: Vùng Quảng Đông – Hải Ninh theo các công ước Pháp – Thanh về biên giới 1887-1895, NXB. Dũng Châu.
42. Tuấn Quỳnh. 1974. Đồng bào sắc tộc Nùng. Sài gòn: Nhà in Hoàng Long
43. Wheeler, Charles (2006), “Re-thinking the Sea in Vietnamese History: Littoral Society in the Integration of Thuan – Quang, seventeenth-eighteenth Centuries”, Journal of Southeast Asian Studies, 37 (1), pp. 123-153.
Bài đăng Tia Sáng số 15/2024