Phần 2: Trí thức Việt Nam – Nền tảng lịch sử và các vấn đề đặt ra

Nhiều học giả cho rằng, nếu căn cứ vào nghĩa gốc của khái niệm trí thức, tức là sử dụng các tiêu chuẩn của bối cảnh chính trị - văn hóa phương Tây để nhìn vào điều kiện Việt Nam thì có thể nói rằng: trong lịch sử, ngoại trừ giai đoạn 1900 - 1945, Việt Nam chưa bao giờ có một tầng lớp trí thức đích thực. Vì thế, cái gọi là giới trí thức tinh hoa lại càng trở nên không tưởng.

Thực ra, trả lời câu hỏi có hay không một tầng lớp trí thức trong xã hội Việt Nam truyền thống là điều không đơn giản. Từ lí thuyết đến thực tiễn luôn tồn tại một khoảng cách, và nội dung thực tiễn luôn có khuynh hướng tràn ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của lí thuyết trừu tượng. Thay vì tham gia vào cuộc tranh luận phức tạp nói trên, chúng tôi tạm chấp nhận giả định rằng: đã có một tầng lớp trí thức Việt Nam trong lịch sử, từ đó cố gắng nhận diện gương mặt, bối cảnh hình thành và đặc điểm của họ. Nhưng đó chưa phải là trọng tâm của vấn đề. Điều quan trọng là từ những dữ kiện thực tế, bài viết này sẽ cố gắng đi đến một số gợi mở về các điều kiện để hình thành một đội ngũ trí thức đích thực trong bối cảnh mới của đất nước.

Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, trong lịch sử trung đại Việt Nam, mẫu hình trí thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà Nho [1]. Đến thời Pháp thuộc (cuối XIX – nửa đầu XX), hệ thống giáo dục thuộc địa lại cho ra đời một loại hình trí thức mới, song hành và nối tiếp loại hình trí thức Nho học trước đó, mà sách vở vẫn quen gọi là trí thức Tây học.

Từ góc nhìn lịch đại, nhiều người vẫn xem lớp trí thức Tây học nửa đầu thế kỉ XX là thế hệ vàng trong lịch sử văn hóa Việt Nam. GS Hoàng Tụy nhận định: “Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức Việt Nam qua các thế hệ, tôi vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ trước” [2]. Tuy nhiên, sau 1945, những thành tựu của nền giáo dục thuộc địa đã không được kế thừa và phát triển. Lớp trí thức Tây học, do đó, chỉ hiện diện ngắn ngủi trên vũ đài lịch sử như một sản phẩm của cuộc tiếp xúc Đông – Tây trong buổi giao thời giữa hai thế kỉ XIX – XX. Vì vậy, khi nói đến trí thức Việt Nam truyền thống, chúng tôi chủ yếu đề cập đến loại hình trí thức nhà Nho.

Trí thức nhà Nho Việt Nam hình thành và phát triển trong một môi trường xã hội Nho giáo – tiểu nông, với một số biểu hiện mang tính đặc thù:

•    Về chính trị: Các triều đại phong kiến thay nhau xây dựng và hoàn thiện dần mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế bằng cách áp lên toàn quốc một bộ máy cai trị quan liêu theo thể thức cha truyền con nối. Nhà Vua đứng đầu bộ máy nhà nước, có quyền lực tuyệt đối trong tay nhờ sở hữu cả thế quyền lẫn thần quyền.

•    Về kinh tế: Nền nông nghiệp trồng lúa nước là sinh kế cơ bản của quốc gia. Thủ công nghiệp và thương nghiệp chỉ mang tính phụ trợ. Vì vậy, trong cơ cấu xã hội, người tiểu nông và nhà Nho trở thành rường cột của nước nhà. Trong khi, giới thương nhân và thợ thủ công không đủ sức vươn lên thành những lực lượng xã hội thuần thục, bị dạt ra khỏi dòng phát triển chủ lưu của cộng đồng.

•    Về tư tưởng, từ thế kỉ XIV trở về sau, Nho giáo dần trở thành quốc giáo, chi phối mọi mặt đời sống tư tưởng dân tộc, đặc biệt là trong thời Lê sơ và thời Nguyễn. Từ chỗ là công cụ đắc dụng góp phần tổ chức bộ máy nhà nước và ổn định xã hội trong thời kì đầu, về sau, Nho giáo bị chính trị hóa triệt để, chỉ còn trơ lại là một công cụ cai trị của nhà nước chuyên chế. Với sự độc tôn, áp chế tuyệt đối của Nho giáo, tình trạng đa nguyên về văn hóa thời Lí – Trần chấm dứt. Từ đây, đời sống sinh hoạt tư tưởng ngày một đơn điệu, sức sáng tạo của cộng đồng hao mòn, nội lực dân tộc suy yếu và trở thành nạn nhân trực tiếp của chủ nghĩa tư bản phương Tây.

•    Về giáo dục, từ thời Lê sơ, chế độ thi cử Nho giáo được xem là mô hình mẫu mực, duy nhất trong đào tạo và tuyển chọn đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Sứ mệnh tối hậu của hệ thống giáo dục Nho học là đào tạo nên những thần dân biết chấp nhận hệ thống cai trị đương tồn một cách vô điều kiện. Trong khi đó, lí tưởng cao đẹp nhất của người đi học là thi đỗ, làm quan – tức hóa thân thành một phần tử trong hệ thống nhà nước và ra sức bảo vệ cho sự tồn tại của hệ thống đó.

Sinh trưởng trong điều kiện như vậy, trí thức nhà Nho mang các đặc điểm sau đây [3]:

(i) Về hoàn cảnh xuất thân, đa phần trí thức nhà Nho đều xuất thân từ các gia đình tiểu nông. Đối với họ, cái đói và miếng ăn trở thành nỗi ám ảnh truyền hệ. Bởi vậy, mục đích trước hết của việc học là giải quyết các nhu cầu thiết thân của cuộc sống bằng cách nỗ lực đạt được một địa vị trong bộ máy nhà nước. Vì chức vụ đi đôi với quyền lợi “một người làm quan cả họ được nhờ”. Cái học (tri thức) chỉ là phương tiện khả dĩ để thay đổi thang bậc xã hội. Điều này khác hẳn với tầng lớp trí thức phương Tây thời trung đại khi phần lớn trong số họ đều xuất thân từ các gia đình trung lưu, quý tộc, do đó, có điều kiện theo đuổi việc học như một mục đích tự thân. Chính đội ngũ quí tộc có học này đã tạo nên những bước ngoặt quan trọng, giúp phương Tây sớm đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

(ii) Về mặt học thuật, không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học và các phát kiến khoa học tự nhiên – kĩ thuật (toán học, vật lí học, thiên văn học …). Loại hình chính là những nhà hoạt động yêu nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học), và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập đến những vấn đề tư tưởng. Chính vì vậy, trong đội ngũ trí thức nhà Nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn đủ sức hướng đạo cho sự phát triển của toàn thể cộng đồng [4]. Hệ quả, trong quá trình lịch sử, đội ngũ trí thức bản địa vẫn phải dựa vào các luồng tư tưởng, tôn giáo bên ngoài rồi thêm, bớt, lấy, bỏ cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Phan Châu Trinh gọi đó là căn bệnh vọng ngoại, sính ngoại. Trong không ít trường hợp, tư tưởng vọng ngoại dẫn đến tư duy giáo điều, mù quáng, nô lệ và gây ra những hậu quả tai hại cho nền văn hóa dân tộc.

(iii) Trong quan hệ với chính quyền, chưa bao giờ tầng lớp nhà Nho Việt Nam thực sự có được vị trí độc lập tương đối về chính trị, để một mặt, sáng tạo nên những thành tựu độc lập trong lĩnh vực tri thức, mặt khác, trở thành một lực lượng có khả năng đối thoại trên tinh thần bình đẳng, dân chủ với triều đình nhằm bảo vệ lợi ích của cộng đồng – quốc gia hay tạo áp lực xã hội để nhà nước tìm cách nâng cao chất lượng thể chế [5]. Lịch sử Việt Nam thưa vắng các nhà tri thức canh tân, và bi kịch của giới trí thức thường rơi vào những người có tư tưởng cấp tiến, khi khát vọng canh tân của họ không tìm được sự đồng cảm từ bộ máy cai trị và nhân dân, rơi vào bế tắc, tuyệt vọng.

Quá trình hiện đại hóa Việt Nam trong khuôn khổ của một xã hội thuộc địa cuối thế kỉ XIX – nửa đầu thế kỉ XX không phá vỡ triệt để cơ tầng kinh tế – xã hội cổ truyền. Nền giáo dục thuộc địa, tuy đã tạo ra một lớp trí thức Tây học tiến bộ, chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, không thể gây nên một sự chuyển hóa hoàn toàn về chất cho đội ngũ trí thức Việt Nam. Hơn nữa, lịch sử Việt Nam sau 1945 lại thiếu tiền đề để kế thừa và phát triển những thành tựu tích cực của nền giáo dục thuộc địa. Vì thế, những đặc điểm (cũng là yếu điểm) của lớp trí thức nhà Nho có điều kiện tái sinh trong tầng lớp trí thức Việt Nam đương đại. Không hề ngẫu nhiên khi GS. Hoàng Tụy nhận xét rằng: các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ một cách bài bản, lớn lên trong nền giáo dục thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp, hằng ngày được gián tiếp hay trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân vì dân vì nước… mà sao có vẻ như phẩm chất chưa được như ta kỳ vọng. Có cái gì chưa ổn lắm, cho nên gặp hoàn cảnh không thuận lợi thì bộc lộ nhiều nhược điểm [6].

Trong bối cảnh đó, theo chúng tôi, chiến lược xây dựng, phát triển, sử dụng trí thức và nhân tài của Đảng, nhà nước cần phải bắt đầu bằng việc xác lập các điều kiện khả hữu nhằm tạo đà để hình thành nên một đội ngũ trí thức hiện đại theo đúng nghĩa của khái niệm này. Bài học lịch sử Việt Nam và thế giới cho phép đi đến một số gợi mở sau đây:

(1) Chấn hưng nền giáo dục quốc gia theo hướng hiện đại hóa, dân chủ hóa toàn diện: Trong bất kì xã hội nào, trí thức là sản phẩm trực tiếp của một hệ thống giáo dục, do vậy, chất lượng của đội ngũ trí thức phụ thuộc vào bản chất và trình độ phát triển của chính hệ thống giáo dục đó. Ở Việt Nam, ngay từ đầu thế kỉ XX, Phan Châu Trinh và một số đồng chí của ông (Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng …) đã nhận ra và phê phán không thương tiếc những khuyết tật của nền giáo dục Nho học và chủ trương cải cách giáo dục, nâng cao dân trí để mở đường cho công cuộc hiện đại hóa dân tộc.

Mặt khác, kinh nghiệm ở các nước tiên tiến cho thấy rằng, để trở nên hiện đại, nền giáo dục cần có một không gian tự do nhất định để chuyên tâm vào công việc trồng người mà không bị can thiệp bởi bất cứ một thế lực nào. Hệ thống giáo dục phải trở nên độc lập với nhà thờ và nhà nước. Trong điều kiện ấy, nhà trường bắt tay vào thực hiện một triết lí giáo dục đậm đà tinh thần nhân văn và khai phóng: hướng đến việc đào tạo những thế hệ người đi học có đầy đủ tư cách công dân, gồm các đặc trưng cơ bản: tính độc lập trong tư duy, tính đối thoại, tính khoan dung, tính chịu trách nhiệm và tính vị cộng đồng. Bằng cách này, hệ thống giáo dục góp phần quan trọng để nâng cao mặt bằng dân trí, khai sáng cộng đồng, đảm bảo nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng cho xã hội. Đây là nền tảng đầu tiên để xuất hiện người tài, cũng như một đội ngũ trí thức hiện đại trong tương lai.

(2) Tạo lập không gian sinh hoạt cho tầng lớp trí thức: Ở đây, chúng tôi muốn sử dụng khái niệm “không gian” theo một nghĩa rộng. Nó không đơn thuần là các trường học, thư viện, viện nghiên cứu … vốn trực tiếp gắn liền với công việc thường ngày của giới trí thức. Chúng tôi muốn nói đến một không gian lớn hơn, bao trùm hơn: xã hội dân sự. Tồn tại song hành và độc lập tương đối với chính trị và kinh tế thị trường như một “lực lượng thứ ba” (third sector), xã hội dân sự góp phần hoàn thiện cấu trúc của các xã hội hiện đại, dân chủ. Xã hội dân sự, nơi những người công dân biết tổ chức các đoàn thể, hiệp hội để bày tỏ nhận thức, trách nhiệm và thực hiện quyền tham gia của họ vào giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của cộng đồng, chính là môi trường khả hữu nhất để giới trí thức thực hiện các diễn đàn trao đổi học thuật hay ngoài học thuật và thực hiện sự nối kết giữa họ với xã hội rộng lớn. Quan trọng hơn, từ môi trường ấy, sẽ hình thành nên một nền văn hóa công luận (public culture), mà người chủ trì không ai khác chính là giới trí thức.

Theo Habermas, hiện đại hóa gắn liền với văn hóa công luận, mà đặc tính của văn hóa công luận là tự do tư tưởng và thực hiện phê phán xã hội, phản biện xã hội [7]. Phê phán xã hội hoàn toàn không phải là chống đối xã hội. Trái lại, phê phán xã hội thực chất là một hình thức đối thoại bình đẳng, dân chủ giữa xã hội với nhà nước trong đó tầng lớp trí thức giữ vai trò đại diện cho cộng đồng, nhằm thúc đẩy sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước và các thiết chế quản lí. Baran góp thêm một góc nhìn cho phương diện này: Người trí thức tự bản chất là kẻ phê phán xã hội, người mà ưu tư là nhận diện, phân tích sự vật, và bằng cách đó, góp phần vượt qua mọi trở ngại ngăn cản sự vươn tới một trật tự xã hội tốt đẹp, nhân đạo và hợp lý hơn. Do đó, anh ta trở thành lương tri của xã hội và là phát ngôn nhân của những lực lượng tiến bộ mà trong bất kỳ thời kỳ lịch sử nào xã hội cũng có… [Vì vậy], nêu rõ chức năng của người trí thức và nhấn mạnh trên tính cách dấn thân của họ là điều cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Bởi vì chính trong loại điều kiện như thế mà người trí thức phải nhận lãnh số phận, cả như đặc quyền lẫn đặc nhiệm, là bảo toàn truyền thống nhân bản, lý trí và sự tiến bộ – gia sản quý báu nhất của nhân loại qua suốt toàn bộ quá trình lịch sử [8].

Theo Bùi Văn Nam Sơn, trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của phê phán xã hội càng trở nên quan trọng. Đối với các nước đang trong quá trình hiện đại hóa, thì phê phán hay phản biện xã hội đồng nghĩa với việc phê phán những khuyết tật của hiện đại hóa: Trong tinh thần ấy, hiện đại – phản tư một mặt chống lại việc tiếp tục tiến trình hiện đại hoá một cách mù quáng… Mặt khác, nó cũng phải tranh biện với các xu hướng hậu – hiện đại muốn vứt bỏ hết mọi giá trị của hiện đại. Hiện đại – phản tư không còn chạy theo sơ đồ ứng xử và tư duy đơn thuần mang tính phương tiện – mục đích của hiện đại thứ nhất, trái lại, bất chấp mọi sự đứt gãy, vẫn giữ vững và phát huy hằng số của các nguyên tắc hiện đại; đó là: sự bó buộc phải biện minh và lập luận, sự cạnh tranh của các lý lẽ và tôn trọng lý lẽ tốt hơn vì không ai nắm độc quyền chân lý, và, thứ ba, thừa nhận vị trí trung tâm của cá nhân với đầy đủ những quyền tự do chính trị, xã hội, văn hoá [9].

Ngoài ra, nền văn hóa công luận cũng là mảnh đất ươm mầm cho sự đa dạng về văn hóa – tư tưởng thông qua hoạt động tương tác, trao đổi giữa các nhóm xã hội. Điều này đảm bảo sức năng sản, sức sáng tạo của đời sống xã hội, giúp giảm thiểu và cân đối các rủi ro, hạn chế của bộ máy nhà nước. Trong ý nghĩa này, nền tảng văn hóa của cộng đồng, nói như Alexis de Tocqueville, thực sự là nguồn dưỡng sinh của thể chế chính trị. 

Như vậy, chỉ trong điều kiện tồn tại môi trường xã hội dân sự và nền văn hóa công luận, tầng lớp trí thức mới có thể thực hiện một trong những chức năng cơ bản nhất của nó: phê phán/phản biện xã hội.

(3) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, định chế xã hội đảm bảo cho hoạt động phản biện của giới trí thức: Ngoài cơ chế đảm bảo đời sống vật chất (chính sách đãi ngộ nhân tài), cơ chế tuyển chọn người tài, nhà nước cần ban hành các định chế xã hội hoặc thể chế hóa một số thông tư – qui định – nghị định nhằm tạo điều kiện cho giới trí thức thực hiện các hoạt động đặc trưng của họ, mà điển hình nhất là hoạt động phản biện xã hội. Bằng cách này, nhà nước không những khai thác được nguồn chất xám của đội ngũ trí thức, nâng cao tính hiệu quả cho hệ thống chính sách của mình, mà còn tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền với nhân dân. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các quyền cơ bản cần sớm được thể chế hóa là: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tiếp cận thông tin và quyền tự do lập hội. Việc hợp pháp hóa các quyền vừa nêu sẽ tạo nên một cú hích quan trọng cho sự phát triển lành mạnh của giới trí thức nói riêng và xã hội dân sự nói chung.

Cần nhấn mạnh rằng, không có tự do ngôn luận và không có quyền lập hội thì mọi chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức của chính quyền sẽ trở nên kém khả thi. Bàn về mối quan hệ giữa tự do và quá trình khai sáng cộng đồng, Kant viết: Khai sáng cho cả một cộng đồng, tất cả không cần gì khác ngoài tự do. Quyền tự do ngôn luận đó chính là dạng thức tự do nguyên sinh nhất để công khai trước cộng đồng lý trí của một cá nhân về mọi lĩnh vực [10].

Dĩ nhiên, trong trường hợp này, cần hiểu khái niệm tự do theo một ý nghĩa phù hợp với bối cảnh chính trị – văn hóa Việt Nam. Đó không phải là một thứ tự do chung chung, mơ hồ, trừu tượng hay tự do vô chính phủ; trái lại, nó là một thứ do vừa cụ thể vừa phổ quát, vừa thiết thực vừa nhân bản, đã được Hồ Chí Minh khẳng định là quyền bất khả xâm phạm của con người trong Tuyên ngôn độc lập 1945 cũng như trong Hiến pháp lập quốc 1946. 

(4) Ba gợi mở nói trên chủ yếu xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước đối với vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, trong “cuộc chơi” này, Nhà nước không phải là người độc hành. Bản thân đội ngũ trí thức và cộng đồng cũng cần chia sẻ, gánh vác một phần trách nhiệm đối với Nhà nước.

Đối với giới trí thức, có một thực tế cần phải thừa nhận ngay từ đầu là: ngày nay, người trí thức Việt Nam đứng trước rất nhiều thử thách: (i) nguy cơ tụt hậu so với các trào lưu học thuật – tư tưởng của nhân loại; (ii) nguy cơ vong bản vì sự mai một, băng hoại của nền tảng văn hóa dân tộc; (iii) nguy cơ tha hóa trước những cám dỗ phức tạp của đời sống thường nhật (quyền lực, kinh tế …); (iv) đảm đương sứ mệnh khai sáng cộng đồng trong điều kiện nền dân trí chưa cao và xã hội ngày một phân tầng sâu sắc; (v) thích ứng với những tác động ngược của một khung thể chế còn nhiều khiếm khuyết… Trong bối cảnh đó, người trí thức Việt Nam không còn con đường nào khác ngoài việc kết hợp giữa tiếp thu di sản văn hóa dân tộc và cập nhật, hệ thống hóa nguồn tri thức mới của nhân loại; đồng thời phát triển tư cách công dân để có một thái độ tham gia tích cực cho sự phát triển của xã hội. Sinh thời, GS. Hoàng Ngọc Hiến vẫn băn khoăn về một mẫu hình trí thức Việt Nam trong thời đại toàn cầu. Đó là người bắt buộc nắm vững ngoại ngữ và công nghệ để làm cầu nối giữa dân tộc và nhân loại. Phải chăng, đấy là một gợi ý về mô hình phát triển cho người trí thức Việt Nam hiện nay? 

Về phía cộng đồng, trách nhiệm hàng đầu được đặt ra là: không ngừng khao khát hướng về quá trình khai sáng cộng đồng, nâng cao mặt bằng dân trí bằng cách tận dụng tối đa các công nghệ hiện đại để tích lũy và mở mang kiến thức; kế thừa – phát triển các giá trị nhân bản trong đạo lý truyền thống của dân tộc: ý thức cộng đồng, lòng vị tha. Trong bối cảnh mới, tinh thần cộng đồng của người tiểu nông truyền thống cần được chuyển hóa thành trách nhiệm xã hội của người công dân hiện đại bằng cách nhập thân tích cực vào môi trường xã hội bên ngoài thông qua các đoàn thể thuộc xã hội dân sự…

Nhân tài, trí thức là câu chuyện muôn thuở của mọi thể chế, quốc gia. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, chưa bao giờ những vấn đề đặt ra từ công tác xây dựng – sử dụng – phát triển đội ngũ nhân tài nói riêng và tầng lớp trí thức nói chung lại trở nên thời sự, cấp bách và đòi hỏi được giải quyết một cách nghiêm túc, rốt ráo, triệt để như giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh đó, hi vọng cuộc thảo luận rộng rãi trở lại chủ đề này sẽ tạo thêm một động lực, một cú hích mới nhằm khích lệ tinh thần xây dựng và khát vọng đổi mới của tất cả các lực lượng xã hội, ngõ hầu đi đến những giải pháp khả dĩ cho một vấn đề liên quan đến sự tồn – sinh, hưng – vong của quốc gia – dân tộc tại một thời điểm mang tính bản lề của lịch sử.

[1] http://vanhoanghean.vn/goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/977-gioi-tri-thuc-tinh-hoa-trong-lich-su-viet-nam.html

[2] http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vd3d3LnRhbGF3YXMub3JnLz9wPTIxMjY1&b=5

[3] Trong phần này, chúng tôi sử dụng nhiều tư liệu của PGS. Trần Đình Hượu và PGS.TS Trần Ngọc Vương – hai học giả chuyên nghiên cứu về Nho giáo và văn hóa Việt Nam cổ điển

[4] http://vanhoanghean.vn/goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/977-gioi-tri-thuc-tinh-hoa-trong-lich-su-viet-nam.html

[5] http://vanhoanghean.vn/goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/977-gioi-tri-thuc-tinh-hoa-trong-lich-su-viet-nam.html

[6] http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vd3d3LnRhbGF3YXMub3JnLz9wPTIxMjY1&b=5

[7] http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/BuiVanNamSon/HienDaiThuHaiVaNenVanHoaCongLuan-BVNS.htm

[8] Paul Alexandre Baran, tlđd

[9] http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/BuiVanNamSon/HienDaiThuHaiVaNenVanHoaCongLuan-BVNS.htm

[10] Bùi Quang Minh (2011), Chia sẻ về sứ mệnh xây dựng chungta.com, http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Chia_se_ve_su_menh_xay_dung_chungta/?cPage=2#comments)

                                                  

Tác giả