Phương thức sản xuất số 

Thay đổi lớn nhất trong kỷ nguyên số là môi trường con người đã sống ngàn năm nay thành môi trường thực-số1. Chuyển đổi số là quá trình thay đổi cách sống, cách làm việc trên môi trường thực-số, và theo đó phương thức sản xuất cũng phải thay đổi cho phù hợp với môi trường thực-số, có thể gọi là “phương thức sản xuất số”.

Ảnh: Shutterstock.

Lực lượng sản xuất số

Trong hơn hai thế kỷ qua, phương thức sản xuất đã thay đổi sâu sắc qua các giai đoạn của những cuộc cách mạng công nghiệp, tương ứng với các đặc trưng cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa, và thông minh hóa.

Trong giai đoạn cơ khí hoá (từ cuối thế kỷ 18), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng là than đá và sắt. Than là nguồn năng lượng cho động cơ hơi nước, là nhiên liệu cho các lò cao, sắt là nguyên liệu chính để chế tạo máy móc cơ khí. Công cụ sản xuất tiêu biểu của giai đoạn này là máy chạy bằng hơi nước và các loại máy đơn giản. Sức lao động thủ công và sức kéo động vật dần được thay thế bằng năng lượng cơ học và máy móc.

Trong giai đoạn điện khí hóa (từ cuối thế kỷ 19), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng là dầu mỏ và thép. Cùng với than đá, dầu mỏ là năng lượng cho động cơ đốt trong, cho phép sản xuất điện năng và vận hành các nhà máy điện. Thép được sử dụng để chế tạo máy móc, xây dựng nhà máy, cầu cống, tàu hỏa, dây chuyền lắp ráp. Công cụ sản xuất tiêu biểu của giai đoạn này là máy chạy bằng sức điện và dây chuyền sản xuất được tự động hóa từng phần. Sức lao động dần chuyển từ cơ năng sang điện năng, năng suất lao động tăng nhanh, sản xuất hàng loạt trở nên phổ biến.

Trong giai đoạn tự động hóa (từ giữa thế kỷ 20), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng là nguyên liệu silicon và chất bán dẫn. Các nguyên liệu gốc này là nguồn tạo ra các đối tượng lao động thứ cấp quan trọng như chip bán dẫn để chế tạo các vi mạch và linh kiện điện tử. Từ giai đoạn này sự tương hỗ giữa đối tượng, công cụ và sức lao động ngày càng rõ hơn. Máy tính ra đời như sản phẩm của điện tử và bán dẫn đã nhanh chóng trở thành công cụ sản xuất quan trọng, và công cụ này dẫn đến một loại đối tượng sản xuất mới là dữ liệu 2 và thông tin, cũng như sự phát triển của các công cụ lao động mới– công nghệ thông tin và tự động hóa. Sức lao động ở giai đoạn này chuyển dần qua tự động hóa, dẫn đến sản xuất với thể lực giảm trí lực tăng.  


Việc số hóa và kết nối rộng khắp này đã chuyển môi trường sản xuất truyền thống thành môi trường thực – số. Công cụ sản xuất tiêu biểu của giai đoạn này là các công nghệ số và AI.

Trong giai đoạn thông minh hóa (từ đầu thế kỷ 21), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng nhất là dữ liệu. Khác với thời tự động hóa chủ yếu dùng dữ liệu cấu trúc và do đó thông tin thu được hạn chế, giai đoạn này khai thác rộng rãi dữ liệu phi cấu trúc, với khối lượng rất lớn do số hóa diễn ra ở mọi lĩnh vực. Việc số hóa và kết nối rộng khắp này đã chuyển môi trường sản xuất truyền thống thành môi trường thực-số. Công cụ sản xuất tiêu biểu của giai đoạn này là các công nghệ số3 và AI.. Tri thức được tạo ra từ dữ liệu ngày nay cũng đã trở thành một loại đối tượng sản xuất và AI tạo sinh có thể giúp con người dễ dàng tìm ra các tri thức quan trọng cần để làm sản phẩm. Với những đặc điểm trên, sức lao động đang dịch chuyển sang thông minh hóa, đòi hỏi những năng lực số thích hợp của người lao động.

Sự thay đổi của lực lượng sản xuất qua các cuộc cách mạng công nghiệp phản ánh xu hướng ngày càng trí tuệ hóa và phi vật chất hóa. Mối quan hệ động và tương hỗ giữa con người, công cụ lao động và đối tượng lao động không ngừng phát triển, dẫn đến những bước nhảy vọt trong năng suất và hiệu quả sản xuất. 

Quan hệ sản xuất số

Khi dữ liệu, tri thức và các công nghệ số như AI trở thành đối tượng và công cụ sản xuất chủ đạo, quan hệ sản xuất ở Việt Nam đối mặt những cơ hội và thách thức mới.

Về sở hữu tư liệu sản xuất số

Trong giai đoạn này, bên cạnh sở hữu tư liệu sản xuất từ các giai đoạn trước, việc sở hữu dữ liệu và tri thức có vai trò quan trọng hàng đầu. Dữ liệu tại Việt Nam đang được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau, được sở hữu và quản lý bởi nhiều bên. 

Quy trình sản xuất được tự động hóa của Gốm sứ Minh Long.

Một là, dữ liệu do nhà nước sở hữu. Đó là dữ liệu của các Bộ, Ngành trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, dữ liệu của các tỉnh thành. Đó là dữ liệu của các doanh nghiệp nhà nước, dữ liệu thuế và tài chính của các doanh nghiệp tư nhân, dữ liệu từ các tổ chức của nhà nước.

Hai là, dữ liệu do các doanh nghiệp sở hữu. Đây là dữ liệu khách hàng, dữ liệu nhân viên, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, dữ liệu sản xuất kinh doanh về sản phẩm, dịch vụ, quy trình sản xuất, kho hàng, đối tác, và các dữ liệu nội bộ khác. 

Ba là, dữ liệu sinh ra và thu thập ở Việt Nam nhưng do các doanh nghiệp và tổ chức nước ngoài sở hữu. Đó là dữ liệu người dùng trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Google, Shopee, TikTok; dữ liệu từ các ứng dụng di động như Google Maps, Grab; dữ liệu từ các sàn thương mại điện tử quốc tế như Amazon, Lazada; và dữ liệu do các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam thu thập và nắm giữ. 

Bốn là, dữ liệu tạo ra từ các nguồn khác như từ các thiết bị IoT và cảm biến, từ các cơ sở nghiên cứu khoa học và giáo dục, từ các tổ chức xã hội, phi chính phủ… có sự đa dạng về quyền sở hữu, tùy thuộc vào người hoặc tổ chức tạo ra, các thỏa thuận pháp lý, và quy định địa phương.

Tóm lại, ở Việt Nam dữ liệu được tạo ra từ nhiều nguồn, nhưng quyền sở hữu và khai thác chủ yếu thuộc về chính phủ, doanh nghiệp lớn, và các nền tảng quốc tế.


Trong phương thức sản xuất số, dữ liệu phải được coi là yếu tố sản xuất cốt lõi, quyết định hiệu quả và khả năng tối ưu hóa quy trình, và quản lý cần dựa trên phân tích dữ liệu thời gian thực.

Về tổ chức và quản lý sản xuất số

Trong phương thức sản xuất số, tổ chức và quản lý sản xuất có những đặc trưng và yếu tố quan trọng nổi bật.

Một là, dữ liệu phải được coi là yếu tố sản xuất cốt lõi, quyết định hiệu quả và khả năng tối ưu hóa quy trình, và quản lý cần dựa trên phân tích dữ liệu thời gian thực.

Hai là, AI và các công nghệ số liên quan cần được sử dụng để tổ chức sản xuất hợp lý và hiệu quả. Các quyết định cần được hỗ trợ và đánh giá bởi các mô hình AI.

Ba là, cần kết nối và tích hợp các hệ thống, các bộ phận của sản xuất, chẳng hạn qua IoT để đảm bảo giao tiếp liên tục giữa các thành phần.

Bốn là, chú trọng tính linh hoạt và cá nhân hóa, điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu thị trường, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cá nhân hóa với chi phí thấp.

Năm là, khai thác các đặc điểm của môi trường thực-số, mọi công việc trên các nền tảng số, như phần mềm quản lý sản xuất, làm việc từ xa, và hệ thống cộng tác số.

Việc tổ chức và quản lý sản xuất phải lấy dữ liệu làm trung tâm, kết hợp công nghệ số và AI để đảm bảo tính linh hoạt, đáp ứng nhanh chóng với nhu cầu thị trường.


Phương thức sản xuất là cách thức một xã hội tổ chức và thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai khái niệm cơ bản trong kinh tế học Mác-Lênin, cùng nhau cấu thành nên phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm tư liệu sản xuất và sức lao động, trong đó tư liệu sản xuất lại được xem gồm đối tượng và công cụ sản xuất, và sức lao động gồm thể lực và trí lực. Quan hệ sản xuất gồm sở hữu tư liệu, quản lý sản xuất, và phân phối sản phẩm. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau và quyết định sự phát triển của xã hội. 

Về phân phối sản phẩm số

Quan hệ phân phối sản phẩm giai đoạn hiện nay trải qua những thay đổi căn bản so với các giai đoạn trước.

Một là, tối ưu hóa dựa trên khai thác dữ liệu lớn nhờ AI để dự đoán nhu cầu khách hàng theo thời gian thực, tối ưu hóa phân phối, tránh tồn kho dư thừa hoặc thiếu hụt.

Hai là, phân phối linh hoạt và nhanh chóng nhờ áp dụng mô hình phân phối dựa trên nhu cầu, tăng tốc độ giao hàng nhờ tự động hóa như robot giao hàng và drone.

Ba là, tạo chuỗi cung ứng kết nối thông minh nhờ tích hợp trên các nền tảng số, kết nối liền mạch giữa các nhà sản xuất, kho bãi, và đơn vị vận chuyển. 

Bốn là, đảm bảo tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc do áp dụng công nghệ chuỗi khối để ghi lại thông tin sản phẩm, giúp truy xuất nguồn gốc dễ dàng. 

Năm là, cá nhân hóa trải nghiệm khách hàng nhờ phân phối sản phẩm theo nhu cầu và sở thích riêng của khách hàng, biết được nhờ dữ liệu hành vi tiêu dùng. 

Phân phối sản phẩm cần dữ liệu, AI, và tự động hóa để tạo ra một chuỗi cung ứng linh hoạt, minh bạch, bền vững, và đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị trường.

Năm việc chính yếu

Trong phương thức sản xuất số, sản xuất gồm cả các giá trị tạo ra từ dữ liệu và tri thức như phân tích dữ liệu để chẩn đoán bệnh, dự đoán xu hướng thị trường. Các sản phẩm hữu hình như máy móc, thiết bị, và nhiều dịch vụ vẫn giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực công nghiệp và sản xuất vật chất truyền thống, tuy giá trị gia tăng của các sản phẩm này ngày càng đến từ công nghệ số như xe tự lái hay các thiết bị IoT. Các sản phẩm vô hình trở thành trung tâm trong các ngành dựa trên dữ liệu và công nghệ số như chẩn đoán bệnh bằng AI hay đào tạo trực tuyến, như nội dung số của các chương trình truyền hình VTV, tài liệu hướng dẫn, bản quyền công nghệ, như các nền tảng số, phần mềm tự động hóa, hoặc các công cụ phân tích dữ liệu lớn.


Việc mở rộng cách hiểu về sản xuất và sản phẩm phản ánh bản chất của phương thức sản xuất số và phù hợp với sự chuyển dịch sang nền kinh tế số hiện đại.

Việc mở rộng cách hiểu về sản xuất và sản phẩm phản ánh bản chất của phương thức sản xuất số và phù hợp với sự chuyển dịch sang nền kinh tế số hiện đại. Ta giới hạn nói về năm việc chính yếu, trong nhiều việc phải đối mặt và giải quyết.

Một là, xây dựng hạ tầng số. Đó là hạ tầng số quốc gia, hạ tầng số của các doanh nghiệp từ lớn đến vừa và nhỏ, của mọi tổ chức. Hạ tầng số gồm ba thành phần: Hạ tầng kỹ thuật với máy chủ, mạng Internet, thiết bị lưu trữ; hạ tầng dữ liệu với các  nguồn tài nguyên cần cho mọi hoạt động sản xuất; và hạ tầng công nghệ với các công nghệ phi vật chất, đóng vai trò như công cụ trí tuệ, hỗ trợ khai thác, xử lý và chuyển đổi dữ liệu thành thông tin và tri thức cần cho sản xuất. Xây dựng hạ tầng số chính là xác lập đối tượng và công cụ sản xuất số của lực lượng sản xuất, và sở hữu tư liệu sản xuất số.

Hai là, phát triển nguồn nhân lực. Sức lao động của giai đoạn sản xuất thông minh đòi hỏi người lao động phải sử dụng được các công nghệ vật chất và phi vật chất tiên tiến. Nếu như kiến thức và kỹ năng số có thể học tập và rèn luyện thì thái độ cần xây dựng qua văn hóa số, văn hóa đổi mới sáng tạo. Phát triển nguồn nhân lực số chính là xác lập sức lao động số.

Ba là, hoàn thiện thể chế. Chuyển đổi số để xác lập phương thức sản xuất số đòi hỏi một môi trường với khung pháp lý quy định rõ ràng, phù hợp và hiệu quả. Đó là việc nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật chất lượng để bảo vệ dữ liệu, bảo vệ an toàn an ninh mạng và giao dịch mạng, quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường số, các quy định liên quan đến chuyển đổi số, và thiết lập chính sách hỗ trợ chuyển đổi số, tạo cơ chế thử nghiệm cho các mô hình mới. Hoàn thiện thể chế chính là xác lập pháp lý cho lực lượng và quan hệ sản xuất số.

Bốn là, xây dựng hệ sinh thái số cho sản xuất. Những việc cần làm là khuyến khích các trung tâm nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ, và khởi nghiệp phát triển các giải pháp phục vụ sản xuất số; tạo môi trường thuận lợi để các khởi nghiệp về công nghệ số phát triển, như các vườn ươm, quỹ đầu tư, và tạo cầu nối giữa các doanh nghiệp lớn và các khởi nghiệp để cùng phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới. Xây dựng hệ sinh thái số chủ yếu là việc xác lập quan hệ sản xuất số.

Năm là, xây dựng năng lực nội sinh. Vấn đề mấu chốt để sản xuất thông minh và bền vững là đất nước phải có được năng lực nội sinh, tức khả năng tự phát triển và làm chủ công nghệ của quốc gia, có năng lực tiếp thu, cải tiến và sáng tạo công nghệ mới, có khả năng tự cung cấp giải pháp công nghệ cho nền kinh tế, và có được sức mạnh cạnh tranh dựa trên công nghệ tự phát triển. 

Lời cuối

Những yếu tố quyết định thành bại của một đất nước trên đường phát triển là nguồn nhân lực số và năng lực nội sinh. Thể chế có thể làm nghẽn và cũng có thể khai thông sản xuất tùy vào mức độ hoàn thiện. Một hệ sinh thái số là môi trường để sản xuất số được rộng khắp và bền vững. Cuộc cách mạng chuyển đổi số với những mục tiêu trên và giải pháp phải tìm ra sẽ xác lập phương thức sản xuất số của chúng ta.□

——-

* GS.TS Hồ Tú Bảo, Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán.

Chú thích

1. Môi trường thực-số là môi trường vật lý và xã hội ta đang sống trên đó mỗi thực thể (đối tượng, hệ thống, quá trình sản xuất, v.v.) được số hóa tạo ra bản sao số (dữ liệu), liên tục được cập nhật và phản ánh trạng thái, hoạt động, và hiệu suất của thực thể. Nhờ tích hợp sâu của các công nghệ số vào môi trường này, các bản sao số được sử dụng để mô phỏng, theo dõi, phân tích, và tối ưu hiệu suất của các thực thể. Mọi thực thể vật lý và xã hội có thể kết nối được với nhau qua Internet nhờ các bản sao số của mình.

2. Dữ liệu là kết quả quan sát, đo đạc, ghi chép, thu thập dưới dạng các con số, chữ viết, âm thanh, hình ảnh về các sự kiện, hiện tượng, thuộc tính của thiên nhiên và hoạt động của  con người. Thông tin là nghĩa của dữ liệu, có được từ quá trình xử lý dữ liệu. Tri thức, tức những hiểu biết đã được kiểm chứng, có được do tích hợp thông tin và nối với kiến thức, trải nghiệm và kinh nghiệm của con người.

3.  Công nghệ số là tập hợp tri thức, công cụ, giải pháp và phương pháp để số hóa, thu thập, lưu trữ, xử lý và truyền tải dữ liệu, giúp tạo ra giá trị mới và kết nối chặt chẽ giữa thế giới các thực thể và thế giới số. Công nghệ số không ngừng phát triển, từ các công nghệ số nền tảng như Internet vạn vật, điện toán đám mây, AI đến các công nghệ số chuyên ngành như Fintech, BIM, Medtech, Edtech.

Bài đăng Tia Sáng số 1+2/2025

Tác giả

(Visited 40 times, 40 visits today)