Việt Nam chưa sẵn sàng cho cuộc đua về trung tâm dữ liệu

Việt Nam là một “miền đất hứa” trong mắt các nhà đầu tư để đặt trung tâm dữ liệu, nhưng chúng ta chưa sẵn sàng cả về tài nguyên và pháp lí để họ đổ bộ.

Phối cảnh trung tâm dữ liệu hyperscacler đầu tiên của Viettel tại Tân Phú Trung, Củ Chi. Những người trong ngành chia sẻ rằng, hiện nay những dự án như vậy sẽ không xây ngay toàn bộ công suất, mà chỉ khởi đầu với quy mô nhỏ để “nghe ngóng” thị trường.

“Lúc đầu tôi không biết. Lúc tôi mới bước vào làm việc với Viettel hai năm trước, tôi cũng như bạn: ‘Ồ, ông muốn kéo tụi nước ngoài (hyperscaler) vào? Ok, không vấn đề gì’. Tôi rất tự tin, tự hào nói rằng, ‘không vấn đề gì hết, chắc chắn họ sẽ vào, tôi sẽ nói chuyện với họ’. Nói chuyện với họ thì họ mới mở ra những lí do sâu hơn, sâu hơn…” – Ông Louis Nguyễn, doanh nhân Việt kiều người Mỹ, đứng đầu quỹ Saigon Asset Management (SAM) nói với phóng viên Tia Sáng.  

Hyperscaler là thuật ngữ chỉ những trung tâm dữ liệu quy mô khổng lồ, có khả năng lưu trữ và xử lý khối lượng dữ liệu cực lớn trên toàn cầu. SAM làm việc chặt chẽ với Viettel, FPT… để các công ty nước ngoài tới thuê lại hạ tầng trong nước. Ngoài ra, đầu năm 2025, quỹ đầu tư này cũng công bố tự xây một dự án hyperscaler, với diện tích khoảng 50ha và công suất dự kiến là 150MW ở Khu Công nghiệp Việt Nam – Singapore, Bình Dương và có tổng vốn đầu tư lên đến 1.5 tỉ USD. Tuy vậy, tất cả những dự định của họ đều đang “án binh bất động”. 

Là một nhân tố nhận được nhiều sự chú ý nhưng Việt Nam có thể hoàn toàn đứng ngoài cuộc đua thu hút các hyperscaler đang nóng bỏng trên thế giới và Đông Nam Á. 

Mọi ánh mắt dồn về Việt Nam…

Trước hết, cần phải nói rằng, các hyperscaler không dành cho nhu cầu trong nước. Hiện nay, theo dữ liệu của Baxtel, nền tảng chuyên thu thập và theo dõi hoạt động của các trung tâm dữ liệu trên thế giới, Việt Nam đang có khoảng 50 trung tâm dữ liệu đang hoạt động với tổng công suất khoảng 100 MW. Tuy nhiên, theo chia sẻ của những người trong ngành, con số hoạt động thực tế chỉ bằng một nửa và thị trường này đã bão hòa. “Nhu cầu hiện tại ở Việt Nam, những công ty trong nước đã phục vụ dư rồi. Hiện giờ xây rất nhiều nhưng đâu có phục vụ?” – Phạm Nguyễn Xuân Quỳnh, Giám đốc tại Việt Nam của Edgeworks Global, cung cấp giải pháp toàn diện cho trung tâm dữ liệu ở Đông Nam Á và đồng thời cũng là Trưởng ban phát triển đối tác Trung tâm dữ liệu và Điện toán đám mây của Hội truyền thông số Việt Nam, cho biết.

Các hyperscaler này phục vụ cho các cá mập công nghệ (Big Tech) toàn cầu. Sự phát triển của điện toán đám mây – các dịch vụ cung cấp tài nguyên công nghệ thông tin trên internet theo nhu cầu tùy ý người dùng, cho phép ai cũng có thể phát triển ứng dụng mà không cần phải sở hữu máy chủ vật lí. Sự bùng nổ các ứng dụng dẫn đến sự phình đại dữ liệu, và từ đó dẫn đến sự mở rộng của các trung tâm dữ liệu. Nhưng gần đây, sự nổi lên của AI tạo sinh mới chính là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng của các hyperscaler với tốc độ chưa từng có. Bốn năm qua, tổng công suất của trung tâm dữ liệu trên toàn cầu đã tăng gấp đôi, theo tổng kết của Công ty Nghiên cứu thị trường viễn thông Synergy Research Group. Trong khi thời điểm trước 2018, con số này hầu như không đáng kể. 

Những tập đoàn đứng đằng sau các hyperscaler không phải là những cái tên xa lạ. Họ vừa là những nhà cung cấp hạ tầng cho điện toán đám mây, vừa sở hữu các ứng dụng hàng tỉ người dùng trên thế giới và cũng đồng thời là nhà đầu tư vào những AI tạo sinh nổi bật nhất hiện nay. Hơn hai phần ba hyperscaler thuộc về các tập đoàn Mỹ như Google (với Gemini AI), Microsoft (với ChatGPT), Meta (với Meta AI), Amazon…và dưới 20% dến từ các tập đoàn Trung Quốc như Alibaba, Tencent. Trong một cuộc họp nội bộ, người phụ trách hạ tầng của Google cho biết họ sẽ tăng “năng lực phục vụ AI” gấp đôi sau mỗi sáu tháng, báo hiệu tốc độ tăng trưởng của các trung tâm dữ liệu sắp tới sẽ còn nhanh hơn nhiều so với bốn năm qua. 

Trung tâm dữ liệu của VNG. VNG cũng là một trong số ít nơi đầu tư vào trung tâm nghiên cứu AI. Theo các chuyên gia trong ngành, những nghiên cứu thử nghiệm như vậy chỉ dùng 1-2 “con” server của NVIDIA.

Trung tâm dữ liệu (DC), về cơ bản là một tòa nhà kín đặt các tủ (rack) đựng máy chủ (server) và trong mỗi máy chủ gồm nhiều chip xử lý. Trong cuộc đua để AI trở nên “thông minh” hơn, “uyên bác” hơn, “nhanh nhạy” hơn, các chip phục vụ việc huấn luyện các mô hình AI (AI training) và để mô hình AI đã được huấn luyện xong có thể phân tích dữ liệu và trả lời người dùng (AI inference) đều phải có khả năng tính toán rất mạnh, đi kèm với đó là công suất điện lớn. Tuyệt đại đa số các chip này đều do NVIDIA cung cấp. “Một trung tâm dữ liệu 1MB là cũng tương đối. Với con server mới của NVIDIA, thì 6-7 ‘con’ đấy là chiếm hết rồi. Trong khi đó, với dòng server bình thường, thì là 2000 ‘con’” – Lê Minh Hiếu, Phó giám đốc Trung tâm Kỹ thuật của CMC Telecom nói với Tia Sáng, với tư cách cá nhân. “Ngày xưa mình xây DC thì 5MW đã là lớn rồi, nhưng giờ DC cho AI thì 100 MW cũng đầy.” – anh nói thêm. Công suất điện lớn tập trung ở một số lượng nhỏ server, dẫn tới một vấn đề khác, là “giải nhiệt”. Trong khi các DC truyền thống dùng không khí để làm mát các rack thì các DC AI dùng nước (thường là nước máy, nước sạch) và bốc hơi 80% số nước nó sử dụng. Đó còn chưa kể tốc độ ra mắt công nghệ mới của NVIDIA lẫn tốc độ xây dựng DC ngày càng rút ngắn. “Nếu xây DC như ngày xưa, thì xây xong đã lạc hậu rồi” – anh Lê Minh Hiếu chia sẻ. Nói cách khác, DC sẽ ngày một nhiều lên, cái sau sẽ cần nhiều tài nguyên hơn cái trước. 

Dù để cung cấp hạ tầng cho điện toán đám mây hay phục vụ AI (chủ yếu là AI inference), thì các trung tâm dữ liệu sẽ cần nằm rải rác trên khắp thế giới. Không chỉ để dự phòng. Không chỉ để gần khách hàng. Mà còn để tận dụng tài nguyên ở khắp nơi. Ở Đông Nam Á, những quốc gia “tiên phong” như Singapore, Malaysia, Indonesia đã bộc lộ sự tới hạn về tài nguyên phục vụ DC, đặc biệt là điện và nước. Singapore đã phải ngừng cấp phép cho các DC mới từ 2019-2022. Malaysia đang siết chặt quy định cấp phép DC kể từ 2025. Và các nhà đầu tư phải đi tìm “vùng đất mới”.  

Việt Nam là một thị trường “nguyên sơ” chưa khai phá, một điểm đến hấp dẫn dành cho hyperscaler. Việt Nam nằm trong top 3 quốc gia có chi phí xây dựng DC thấp nhất trên thế giới. “Việt Nam đang rất cạnh tranh về chi phí, nhưng chi phí chỉ chiếm một phần nhỏ, không đáng kể so với lợi thế khác của Việt Nam” – chị Phạm Nguyễn Hương Quỳnh chia sẻ. Vị trí địa lý của Việt Nam vô hình trung cũng là nơi đi qua của phần lớn các tuyến cáp quang biển phục vụ cho nhóm khách hàng quốc tế phi Trung Quốc (non-China). Sự trung lập về mặt chính trị cho phép Việt Nam có thể cung cấp dịch vụ cho cả khách hàng Trung Quốc và Mỹ mà không có trở ngại gì. Chính phủ cũng nhiều lần thể hiện quyết tâm biến Việt Nam trở thành một Digital Hub của khu vực và thế giới, đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số sẽ đạt quy mô 30% GDP. Nghị Quyết 57 và Quyết định 1132/QĐ-TTg Phê duyệt chiến lược hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 vừa qua đều đặt mục tiêu phát triển trung tâm dữ liệu siêu lớn, trung tâm dữ liệu khu vực. “Họ (hyperscaler) rất quan tâm. Nó phải có Việt Nam. Phải là Việt Nam” – ông Louis Nguyễn nhấn mạnh. “Đời sống của các bạn trẻ sẽ tốt hơn, nhiều việc làm hơn, mạng sẽ nhanh hơn, tiền đầu tư về Việt Nam sẽ nhiều hơn” – ông nói thêm.  

Dù có khả năng trở thành gánh nặng về tài nguyên, hyperscaler là một trong những cách nhanh nhất để mở rộng quy mô nền kinh tế số của Việt Nam và thu hút đầu tư nước ngoài. Trong ba năm 2021-2024, Malaysia đã thu hút 34 tỉ USD từ các hyperscaler của các nhà đầu tư Mỹ và dự kiến tổng đầu tư sẽ là 40 tỉ đến năm 2030. Riêng năm 2024, con số đó là hơn 23 tỉ USD, gần tương đương với tổng FDI trên tất cả các ngành của Việt Nam cùng năm. “Việt Nam có thể thu hút ít nhất là 10% của Malaysia, là 4 tỉ USD. Ít nhất” – ông Louis Nguyễn nói. 

Ông Louis nói đúng. Kể từ giữa năm 2024 đến nay, đã có ít nhất 15 dự án hyperscaler được công bố ở Việt Nam với tổng đầu tư đã vượt con số bốn tỉ USD. Theo tính toán của Tia Sáng, tổng công suất của các dự án này khoảng hơn 1.200 MW, gấp gần 10 lần so với tổng công suất của tất cả các trung tâm dữ liệu trong vòng gần 20 năm của Việt Nam cộng lại, theo dữ liệu từ Baxtel. Đáng chú ý nhất là dự án do Công ty G24 của Tiểu vương Quốc A Rập thống nhất, trị giá hai tỉ USD với công suất dự kiến khoảng 70MW tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM), chuyên phục vụ AI. Dự án này cũng là một trong những lí do TP HCM thành lập Tổ công tác liên ngành hỗ trợ dự án Siêu Trung tâm dữ liệu vào tháng 11 vừa qua. Mục tiêu của tổ công tác này sẽ hỗ trợ pháp lí và chuẩn bị đất đai, cơ sở vật chất, đặc biệt là đảm bảo cung cấp điện sạch, ổn định cho các nhà đầu tư vào hyperscaler.    

nhưng Việt Nam chưa sẵn sàng

“Nếu nước ngoài chọn Việt Nam là một ‘hub’ trung tâm dữ liệu, quy mô của mình sẽ tăng lên rất nhanh” – anh Lê Minh Hiếu cho biết. 

Nhưng trái ngược với vẻ ngoài sôi động trên mặt báo, những chính sách hiện tại đường như chưa sẵn sàng cho một cuộc đổ bộ của các hyperscaler vào Việt Nam.

Bài học của Singapore và Malaysia cho thấy không chỉ cần phải chuẩn bị về điện mà còn cần phải đặt ra những tiêu chuẩn để các hyperscaler dùng công nghệ tiết kiệm tài nguyên nhất. Bản thân Nghị quyết 57 và Quyết định 1132 cũng đặt ra mục tiêu thu hút đầu tư trung tâm dữ liệu đạt “tiêu chuẩn quốc tế, an toàn, bền vững, tiêu chuẩn xanh”. Tuy nhiên, thực tế là một câu chuyện khác. 

“Bây giờ ở Việt Nam, chưa có một luật riêng về trung tâm dữ liệu. Xây dựng DC bao gồm tòa nhà, hạ tầng trong đó, chủ yếu nằm trong luật xây dựng” – anh Lê Minh Hiếu chia sẻ. Nói cách khác, trong phần lớn các văn bản pháp lí, trung tâm dữ liệu chỉ được coi như một tòa nhà thông thường, chủ yếu do Bộ Xây dựng quản lý, bỏ qua các yếu tố về kĩ thuật quan trọng khác. Chẳng hạn, một trong những thông số thể hiện hiệu năng của một DC là PUE, là tỉ lệ giữa công suất điện đầu vào và công suất thực dùng cho hệ thống công nghệ thông tin. PUE lý tưởng là nhỏ hơn 1.3. “Nếu không có quy chuẩn gì, thì họ xây DC có PUE bằng 2 cũng được, dùng công nghệ lạc hậu cũng được” – anh Hiếu cho biết. Nếu PUE bằng 2, nghĩa là DC đó đã “phí phạm” một nửa lượng điện tiêu thụ, không phải để chạy các server mà cho việc khác, làm mát chẳng hạn. 

Một số luật và thông tư ra đời sau năm 2022 đã cải thiện vấn đề này nhưng vẫn hạn chế. Thông tư 23, năm 2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu các trung tâm dữ liệu mới phải đạt một số tiêu chuẩn hoặc chứng nhận trong và ngoài nước. Luật Viễn thông năm 2023 đã ghi nhận DC là “một công trình viễn thông” và như vậy sẽ chịu sự kiểm soát của Cục Viễn thông, Bộ Khoa học và Công nghệ. Tuy vậy, theo lời anh Lê Minh Hiếu, “hầu như không ai kiểm soát, xác minh các chứng chỉ của DC cả”.

Sự lỏng lẻo của quy định dành cho DC sẽ dẫn đến vấn đề khác: điện. Malaysia, sau một thời gian phê duyệt ồ ạt hơn 100 hyperscaler, dự kiến đến năm 2030, tổng công suất DC của nước này sẽ đạt gần 13 GW, tương ứng 60% công suất điện của toàn bán đảo. Tại Singapore, con số này mới là 10%, khoảng 1000 W nhưng đã gây áp lực lên hệ thống điện. Còn ở Việt Nam, mức độ tiêu thụ điện năng của tổng 1200 MW gồm 15 dự án được công tuy thoạt nhìn chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ (chưa tới 5%) so với mức tiêu thụ dự kiến tăng thêm của cả nước theo quy hoạch điện 8 vào năm 2030. Nhưng điều đó không có nghĩa là không đáng kể, nhất là các trung tâm này chủ yếu đặt ở Hà Nội và TP HCM, hai địa chỉ tiêu thụ năng lượng nhiều nhất cả nước, thường bị cắt điện luân phiên kể từ năm 2021. Một hệ thống có tổng công suất 1200 MW, tương đương với một nhà máy điện than cỡ lớn, có khả năng cung cấp năng lượng cho hơn bốn triệu dân cư, nửa số dân của Hà Nội. Điều này càng đáng quan tâm trong bối cảnh hầu hết các dự án điện năng theo dự kiến của Quy hoạch điện 8 của Việt Nam như thủy điện tích năng, điện hạt nhân, điện khí LNG đều bị trì hoãn, không thể kịp tiến độ đã định hoặc gặp khó về đầu ra. Việt Nam cần ít nhất 10 tỉ USD mỗi năm để đầu tư cho các cơ sở sản xuất điện tới 2035 trong khi nguồn ngân sách của EVN có hạn. 

Một trong những nguồn điện khả thi ở Việt Nam để huy động cho hệ thống DC trong tương lai đó là điện tái tạo, không phải chỉ vì đây là nguồn điện đang sẵn sàng, dư thừa, chưa được tận dụng ở Việt Nam – có hàng trăm dự án điện tái tạo đang chờ cơ chế. Hơn nữa, đây còn là nguồn năng lượng mà các nhà đầu tư đứng sau hyperscaler đặc biệt quan tâm, coi như là một trong những điều kiện tiên quyết để đạt được cam kết trung hòa carbon vào năm 2030 (Google, Microsoft) và 2040 (Amazon). Họ không chỉ sẵn sàng trả giá cao để mua riêng năng lượng tái tạo chạy DC mà còn đầu tư hệ thống pin lưu trữ (BESS) đảm bảo có thể cung cấp điện ổn định 24/7 nếu cần. “Quy hoạch điện 8 dự kiến có 10 GW lưu trữ để bắt kịp với sự mở rộng của điện gió và mặt trời. Các nhà đầu tư vào DC không thiếu tiền, họ sẽ tự động đứng ra chi trả, đầu tư cho phần của mình” – TS. Minh Hà – Dương, nghiên cứu viên cao cấp về năng lượng tại Viện CNRS, Pháp nhận định.   

Nhưng Việt Nam chưa thể huy động được nguồn điện này vì hạ tầng lưới điện không đủ mạnh. Điện tái tạo đang phải cạnh tranh gay gắt với các nguồn điện khác trên lưới do hệ thống không thể kham nổi một tỉ trọng điện tái tạo quá lớn. Các nhà máy điện tái tạo cho biết họ phải chịu giảm công suất từ 30% đến 100% tùy khung giờ. “Vấn đề không phải là thiếu điện mà vấn đề là truyền dẫn từ nguồn điện đó đến nơi sử dụng điện. Thì hạ tầng truyền dẫn mới là cái đang thiếu” – chị Phạm Nguyễn Xuân Quỳnh nói.

Một vấn đề khác, các nhà phát triển điện tái tạo của Việt Nam đang kiệt sức. Phần lớn dự án đã xây dựng, sẵn sàng vận hành nhưng không bán được hoặc bán quá rẻ cho EVN. Sau sự bùng nổ các dự án điện tái tạo do nhà nước đưa ra giá FIT ưu đãi vào năm 2017 (điện mặt trời) và 2018 (điện gió) thì các nhà đầu tư bỗng vỡ lẽ sau Kết luận số 1027/KLTTCP của Thanh tra Chính phủ năm 2023. Kết luận này thu hồi lại ưu đãi của tất cả các dự án chưa có văn bản Chấp thuận kết quả kiểm tra nghiệm thu của cơ quan chức năng (CCA) tại thời điểm Ngày vận hành thương mại (COD). Vấn đề là, theo các quy định trước 2023, CCA không phải là điều kiện tiên quyết để được hưởng giá FIT. Sự kiện này “ảnh hưởng tới 173 dự án là rất nhiều, là đại đa số các dự án”, theo TS. Minh Hà-Dương. Sau kết luận, các dự án bị trì hoãn thanh toán vô thời hạn hoặc chỉ nhận được một phần thanh toán. Gần đây, EVN đề xuất mua lại điện của một số dự án chỉ bằng 50% giá FIT ban đầu. Trước bối cảnh đó, các dự án gặp khó khăn nghiêm trọng về tài chính. Gần 30 nhà đầu tư đã phải gửi kiến nghị lên chính phủ vì lo ngại phá sản. 

Các hyperscaler kể cả muốn mua điện trực tiếp (DPPA) từ các nhà phát triển điện tái tạo cũng không được. “Về lý thuyết thì DPPA khả thi ở Việt Nam nhưng không ai dám làm người thử đầu tiên cả. Rất nhiều dự án đã suy sụp sau vụ lùm xùm giá FIT” – TS. Minh Hà-Dương cho biết. Vụ lùm xùm giá FIT chính là câu chuyện xung quanh kết luận 1027 nói trên. Tia Sáng đã gửi công văn tới Cục Điện lực, Bộ Công thương để hỏi về thách thức triển khai DPPA ở Việt Nam nhưng không nhận được trả lời. 

“Hiện nay chưa có đơn vị nào được phép mua bán điện trực tiếp, trừ các công ty bán lẻ điện của EVN” – chị Phạm Nguyễn Xuân Quỳnh khẳng định. Ông Louis Nguyễn chỉ ra, có ba nhà máy điện mặt trời gần TP. HCM bao gồm BCG (của Bamboo Capital), BV Power (của Becamex Bình Dương) và tập đoàn Trung Nam, rất phù hợp với các trung tâm dữ liệu, “mỗi nơi sẵn ít nhất 1.5 GW điện xanh nhưng không ai dùng được DPPA cả”. Phóng viên Tia Sáng đã liên lạc với cả ba công ty nhưng đều không có phản hồi. Tập đoàn Trung Nam cũng là một trong những nơi có dự án chịu ảnh hưởng bởi Kết luận số 1027. 

Đứng ngoài cuộc đua

Nhưng cũng không loại trừ khả năng Việt Nam hoàn toàn đứng bên lề cuộc đua xây dựng trung tâm dữ liệu, tránh khỏi sự tác động tiêu cực của chúng đến tài nguyên và cũng bỏ lỡ cơ hội nhận đầu tư hàng tỉ USD và định hình một “hạ tầng số xanh”. 

“Mọi dự án (hyperscaler) ở Việt Nam cho đến thời điểm này không có cái nào là “thực” hết. Bởi chưa có dự án nào có giấy phép đầu tư cả”- Chị Xuân Quỳnh cho biết. Thực tế, cũng theo chị, cách đây sáu năm, các nhà đầu tư đã quan tâm đến Việt Nam nhưng vì cơ chế pháp lí chưa rõ ràng nên họ đã chuyển hướng sang Thái Lan. Một chu kì từ quan tâm đến lúc khởi công hyperscaler ở một địa điểm kéo dài khoảng bốn năm. Chu kì mới đã bắt đầu cách đây hai năm, “Nếu không có một nhà đầu tư nước ngoài nào thực sự xuống tiền xây DC ở Việt Nam trong một, hai năm nữa, Việt Nam sẽ lỡ tiếp một nhịp” – chị Xuân Quỳnh chia sẻ. 

Có thể Việt Nam sẽ bỏ lỡ thật do những quy định của Việt Nam liên quan đến chủ quyền dữ liệu.  Luật Dữ liệu (2024) và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (2025) đều yêu cầu doanh nghiệp đánh giá rủi ro khi chuyển dữ liệu xuyên biên giới nhằm bảo vệ an ninh quốc gia. Trong đó, hồ sơ đánh giá sẽ do Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng phê duyệt. Ngoài ra còn có quy định về kiểm tra dữ liệu nhưng phạm vi và quy trình kiểm tra dữ liệu như thế nào vẫn chưa rõ ràng. Theo ông Louis Nguyễn, những Big Tech đằng sau các hyperscaler, đặc biệt là các công ty đã niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ, e ngại quy trình này có thể xung đột với quyền lợi người dùng, theo luật nước này. Đây là nút thắt cổ chai, là lí do chính khiến hyperscaler “rất muốn vào Việt Nam nhưng không được”.   

Để hóa giải điều này đòi hỏi một tiếng nói chung giữa Bộ Công an và những nhà đầu tư hyperscaler. Nhưng điều này khó xảy ra. Trước đây, Luật An ninh mạng (2018) cũng yêu cầu các Big Tech có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu tạo ra tại Việt Nam phải “lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của chính phủ” nhưng chưa có động thái nào giữa hai bên. “Vấn đề là hai bên chưa nói chuyện với nhau. […] Nó trở thành một tình huống mà tiếng Anh gọi là stalemate. Ván cờ không đi tới đâu cả” – Ông Louis Nguyễn chia sẻ. 

Dự án của SAM đã sẵn sàng mọi thứ về hạ tầng đáp ứng những nhu cầu khắt khe nhất của hyperscaler, trong đó có cả 50 MW điện xanh. Nhưng ông Louis Nguyễn nhắc đến nó với nhiều sự mệt mỏi: “Chúng tôi phải đợi hyperscaler nói chuyện với nhà nước. Mọi người đợi thôi…”□   

Bài đăng Tia Sáng số 24/2025

Tác giả

(Visited 19 times, 19 visits today)