Việt Nam trong 30 năm hội nhập ASEAN: Những giá trị của đường lối “trung dung”
Năm 2025 đánh dấu 30 năm Việt Nam tham dự ASEAN và năm năm tới, Việt Nam dự kiến sẽ trở thành chủ tịch tổ chức khu vực này. Việt Nam có thể làm gì để đưa sự gắn kết trong khu vực lên một nấc thang mới?

Một thành viên năng động
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức đánh dấu chấm hết cho một chặng đường hậu chiến bị cô lập trong khu vực. Gia nhập ASEAN năm 1995 không chỉ là một bước ngoặt đối ngoại, mà còn là lựa chọn chiến lược để hội nhập kinh tế, tái định vị quốc gia trong trật tự khu vực hậu Chiến tranh Lạnh. Đây vẫn là câu chuyện tự hào của cả Việt Nam và các quốc gia ASEAN về quá trình thúc đẩy hội nhập khu vực với quyết tâm chính trị từ hai phía. Sau 30 năm làm thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã đảm nhận thành công nhiều nhiệm kỳ lãnh đạo tổ chức này, đồng thời cũng là một thành viên năng động với nhiều sáng kiến.
Gia nhập sau gần 10 năm thực hiện Đổi mới, và năm năm thực hiện phương châm ngoại giao “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế” được xác định trong Đại hội Đảng lần thứ VII, Việt Nam đã nhanh chóng tích cực đóng góp vào quá trình mở rộng ASEAN thông qua quá trình thúc đẩy sự gia nhập của Lào và Myanmar vào năm 1997, và Campuchia vào năm 1999, qua đó hoàn thiện tầm nhìn về một Đông Nam Á thống nhất và hòa bình. Đây không chỉ là sự mở rộng về địa lý, mà còn là biểu hiện tinh thần đoàn kết, nơi Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm tự lực và phục hồi với các nước láng giềng.
Nguyên tắc “không can thiệp” của ASEAN vô hình trung lại song hành, tương thích với “ngoại giao cây tre” của Việt Nam: mềm dẻo và tránh xung đột, tránh đối đầu trực tiếp với bất kì quốc gia nào.
Và quả vậy, Việt Nam đã vươn lên làm nền kinh tế thứ tư của ASEAN. Một phần nhờ vào việc khai thác hiệu quả các cơ chế như Thỏa thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) năm 1992 khi còn là Quan sát viên của ASEAN, sau đó được thay thế bằng Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) năm 2009, cho tới Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) năm 2020, Việt Nam đã nâng GDP tăng lên gấp hơn 20 lần so với thời điểm gia nhập tổ chức này. Ngoài ra, về an ninh khu vực, Việt Nam cũng là một trong những tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ ổn định hàng hải ở Biển Đông, vừa thúc đẩy đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử với Trung Quốc, vừa ủng hộ các hoạt động đấu tranh pháp lý của các quốc gia thành viên như Phillipines tại Tòa Trọng tài về Luật Biển để duy trì luật pháp quốc tế và lợi ích tập thể. Về văn hóa và xã hội, trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN của Việt Nam, các sáng kiến phục hồi sau đại dịch COVID-19 như sử dụng Quỹ ASEAN để mua vaccine cho các quốc gia thành viên hoặc góp phần hình thành các nguyên tắc nền tảng cho ASEAN SHIELD, sáng kiến chiến lược và toàn diện nhằm liên kết các phản ứng của ASEAN đối với tình huống khẩn cấp và thảm họa được thông qua năm 2021.
Lợi thế của ngoại giao mềm dẻo
Việt Nam dự kiến sẽ là chủ tịch ASEAN tiếp theo vào năm 2030. Bối cảnh tranh giành ảnh hưởng của Mỹ, Trung trên thế giới cùng những tranh chấp lãnh thổ tiềm ẩn có nguy cơ ngày càng leo thang giữa các nước ASEAN, như xung đột Campuchia – Thái Lan sẽ đòi hỏi nhiều hơn ở Việt Nam trong việc xoay sở với thẩm quyền hạn hẹp của chủ tịch ASEAN để giữ sự ổn định và hài hòa trong khu vực.
Nhìn sang Liên minh châu Âu EU, các quốc gia chịu sự ràng buộc lớn trong việc thực thi các quyết định của các cơ quan liên quốc gia trực thuộc EU. Khủng hoảng của một quốc gia sẽ dẫn tới các quốc gia khác lên tiếng, bình luận, cùng đóng góp nguồn lực để giải quyết. Dù điều đó có nghĩa khủng hoảng này có thể lan rộng, nhưng đồng thời cũng được giải quyết thực chất, rành mạch, triệt để hơn. Điều này rất khác với ASEAN.

Hòn đá tảng của ASEAN là nguyên tắc “không can thiệp vào nội bộ của nhau”. Điều này được khẳng định trong các văn kiện quan trọng nhất của khu vực như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) năm 1976 và Hiến chương ASEAN. Nói cách khác, trước khủng hoảng của một quốc gia, các nước khác trong ASEAN không có nghĩa vụ hay áp lực phải lên tiếng, hỗ trợ, giúp đỡ. ASEAN chỉ “cho phép” duy nhất chủ tịch ASEAN có chức năng và vai trò trong giải quyết tranh chấp giữa các thành viên ASEAN với nhau và giữa thành viên ASEAN với các nước khác. Lựa chọn chủ tịch ASEAN làm vai trò trung gian dù sao cũng là một phương án có tính chiến lược khi đảm bảo không có cường quốc nào chiếm ưu thế tuyệt đối trong bất kỳ tình huống can dự vào khu vực và chắc chắn đây là lựa chọn được tất cả các bên hài lòng. Tuy vậy, vị trí có một giới hạn nhất định: chỉ được thực hiện chức năng của mình (tham vấn, đối thoại, trung gian, hòa giải) nếu có sự đồng thuận của các quốc gia đang tranh chấp. Nếu các quốc gia đang tranh chấp hay lâm vào khủng hoảng đánh giá thấp tiếng nói của chủ tịch ASEAN, họ có thể từ chối hợp tác. Chẳng hạn, dù Malaysia – với vai trò là đương chủ tịch ASEAN, đã nỗ lực xoa dịu cuộc xung đột giữa Thái Lan và Campuchia diễn ra vào tháng năm vừa rồi nhưng phải cho đến khi hai cường quốc lớn là Hoa Kỳ và Trung Quốc lên tiếng, sự việc mới có tiến triển.
Vậy thì, Việt Nam – dưới cương vị chủ tịch ASEAN sẽ có thế mạnh gì để tiếng nói của mình được lắng nghe? Nguyên tắc “không can thiệp” của ASEAN vô hình trung lại song hành, tương thích với “ngoại giao cây tre” của Việt Nam: mềm dẻo và tránh xung đột, tránh đối đầu trực tiếp với bất kì quốc gia nào. Cũng chính nhờ điều này mà Việt Nam trở thành đối tác chiến lược toàn diện với Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia. Chỉ có duy nhất trường hợp của Phillipines chỉ dừng lại ở đối tác chiến lược, có lẽ một phần vì tranh chấp trên Biển Đông (bởi tranh chấp đảo hoặc vùng đặc quyền kinh tế này sẽ được coi là can thiệp vào nội bộ của nhau.) Sự nhất quán trong phương châm ngoại giao này khiến Việt Nam giành được sự tin tưởng của các quốc gia mà trước đây từng quay lưng với mình thời hậu chiến.

Việt Nam nên tiếp tục tận dụng chiến lược ngoại giao này, tạo ra một hình ảnh thân thiện, công bằng để có thể thúc đẩy đàm phán, hòa giải giữa các bên khi có vấn đề chung cần giải quyết hay có xung đột diễn ra. Indonesia đã từng áp dụng chiến lược tương tự – “ngoại giao con thoi” một cách bền bỉ, kiên định và thành công trong hóa giải xung đột giữa Thái Lan và Campuchia vào năm 2001. Ngoại giao con thoi là khi có một bên thứ ba thu thập thông tin và tạo dựng lòng tin đối với hai quốc gia đang có mâu thuẫn bằng cách “thăm qua thăm lại” giữa hai bên thay vì bắt họ phải ngồi đối diện trực tiếp để hòa giải khi căng thẳng đang dâng cao. Các lãnh đạo ngoại giao của Indonesia lúc bấy giờ không chỉ thực hiện các chuyến thăm giữa Bangkok và Phnom Penh liên tục mà còn tổ chức quy trình để phân định lại biên giới, đạt được thỏa thuận ngừng bắn, thiết lập tổ quan sát để theo dõi tình hình chiến sự. Indonesia có được sự tôn trọng của các nước bạn chính vì luôn giữ được sự “trung dung”, “coi trọng các bên một cách bình đẳng”
Ở vị trí chủ tịch lần tới, Việt Nam nên chuẩn bị cho các hoạt động trung gian một cách chủ động để tích cực thúc đẩy các bên đàm phán, phòng ngừa rủi ro xung đột, thay vì trung gian nhằm giải quyết các xung đột.
Không chỉ học hỏi từ Indonesia, Việt Nam còn có thể tăng cường vị trí của mình bằng cách chia sẻ kinh nghiệm của mình từ những thành công trước đây. Từng là thuộc địa của Pháp, Việt Nam, Lào, Campuchia sau khi độc lập phải đứng trước câu hỏi phải phân chia lại lãnh thổ, biên giới như thế nào cho phù hợp? Liệu có nên công nhận di sản của chính quyền thực dân Pháp để lại không? Mặc dù luật quốc tế, theo nguyên tắc “biên giới lịch sử” – uti possidetis thường công nhận các đường biên sẵn có, nhưng chỉ với điều kiện các quốc gia liên quan chấp nhận. Việt Nam đã thảo luận để đạt được đồng thuận giữa Campuchia và Lào để chấp nhận đường biên giới mà Pháp phân định trong bản đồ Đông Dương vào năm 1954. Sự tranh chấp biên giới giữa Thái Lan và Campuchia dai dẳng trong nhiều năm qua cũng xuất phát thời Đế quốc thực dân Pháp. Bản đồ Pháp ký với Thái Lan vào năm 1950 không có sự đồng ý của Campuchia. Để giải quyết vấn đề này, hai quốc gia lựa chọn biện pháp tài phán thay vì đàm phán. Tuy vậy, quyết định Tòa án Công lý quốc tế mới chỉ giải quyết được một đoạn ranh giới, vẫn còn dư địa để thảo luận cho các khu vực khác dựa trên kinh nghiệm của Việt Nam.
Ngoài ra, thái độ của Việt Nam giữa hai cường quốc lớn là Mỹ và Trung Quốc cũng hết sức quan trọng. Một số quốc gia Đông Nam Á, với vị trí địa lý gần Trung Quốc nhưng ý thức hệ và quyền lợi kinh tế lại gần gũi với phương Tây, luôn chịu sự giằng co về ảnh hưởng quyền lực của hai phía. Mối quan hệ cân bằng của Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc sẽ là một ví dụ tích cực cho các quốc gia lân cận, để cùng hướng tới lợi ích chung của ASEAN. Trong những lát cắt của lịch sử, hiện tượng phe cánh đã từng diễn ra, hạn chế những biện pháp chính trị – ngoại giao trong việc giải quyết các xung đột từ an ninh tới kinh tế. Chẳng hạn, Campuchia là nước duy nhất không thông qua Tuyên bố chung của ASEAN có liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông các năm 2012, 2016.
Tiến đến một liên kết sâu sắc hơn nữa
Dường như rất khó để có thể đạt được mức độ xóa bỏ đường biên giới trong như khối Schengen tại ASEAN vì những bất đồng tồn đọng cũng như sự đa dạng về văn hóa và nền chính trị, nhưng việc thúc đẩy các sáng kiến để hình thành hạt nhân thay đổi là cần thiết. Theo đó, việc tăng cường các ưu đãi về cư trú với các nhóm quốc gia có sự gần gũi về địa lý và văn hóa, tương tự như kinh nghiệm từ Benelux tới Schengen, có thể là bước khởi đầu phù hợp.
Về mặt kỹ thuật, hệ thống công nhận lẫn nhau (Mutual Recognition Arrangements – MRA) của ASEAN mới chỉ chấp nhận bằng cấp của các quốc gia trong tám lĩnh vực kỹ thuật, kiến trúc, điều dưỡng, y tế, nha khoa, kế toán, khảo sát và đặc biệt chủ yếu là du lịch. Tám lĩnh vực này chỉ chiếm khoảng 5% tổng việc làm trong khối. Các MRA này chỉ giúp tăng nhẹ tỉ lệ luân chuyển lao động có tay nghề trong khu vực. Trong các lĩnh vực còn lại, lao động từ Đông Nam Á hầu như di cư sang Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc).
Để kiến tạo một thị trường lao động mới, hấp dẫn và gần gũi với cộng đồng ASEAN, Việt Nam không chỉ nên mở rộng các ngành nghề trong MRA mà còn cần ủng hộ các sáng kiến tăng cường trao đổi giáo dục trong khu vực và mở rộng các điều kiện di trú cho người học là công dân ASEAN để gia tăng khả năng làm việc của nhóm du học sinh, sinh viên trao đổi và nghiên cứu sinh.
***
Tựu trung lại, quá trình hội nhập sắp tới của ASEAN nên được Việt Nam củng cố bằng cách gợi ý bổ sung các biện pháp giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia cũng như các kênh hội nhập nhân dân, đặc biệt là thông qua việc tăng cường các chính sách ưu đãi di trú có điều kiện, từ đó định vị được vị trí của một khu vực trung lập và phát triển ổn định trong sự cạnh tranh của các cường quốc.□
——
* Giảng viên trường ĐH Kinh tế – Luật TP. HCM
Bài đăng Tia Sáng số 19/2025