Chính sách cho đổi mới sáng tạo: Đổi mới ngay từ cách tài trợ

Đầu tư cho đổi mới sáng tạo không nhất thiết lúc nào cũng cần nguồn vốn khổng lồ hay công nghệ cao siêu. Điều quyết định còn nằm ở cách thiết kế tài trợ: phải đảo chiều tư duy so với tài trợ nghiên cứu truyền thống. Thay vì bắt đầu từ phòng thí nghiệm, cần bắt đầu từ đích đến, từ người dùng và bài toán thực tiễn.

Chị Nguyễn Hương Thảo, Quản lý hợp phần Tài trợ Đổi mới sáng tạo của chương trình Aus4Innovation (trái) và chị Nguyễn Đặng Tuấn Minh, Giám đốc kiêm Đồng sáng lập tổ chức hỗ trợ KisStartup (giữa) trao đổi về các cơ chế tài trợ tại tọa đàm “Tài trợ cho R&D và Đổi mới sáng tạo” ngày 27/11. Nguồn: Anh Thư/KHPT/Tia Sáng

Bắt đầu từ nhu cầu, không phải từ công nghệ

Công thức dẫn tới đổi mới sáng tạo thành công vẫn thường được cho là “Đổi mới = nghiên cứu + công nghệ cao + ngân sách lớn”, nhưng thực tế thường không như vậy. Những câu chuyện mà các diễn giả có kinh nghiệm điều hành nhiều dự án tài trợ cho đổi mới sáng tạo thành công chia sẻ trong tọa đàm “Tài trợ cho R&D và Đổi mới sáng tạo: Thông lệ quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam” do Tia Sáng/Khoa học Phát triển tổ chức ngày 27/11 cho thấy đổi mới bắt đầu bằng câu hỏi đúng, không phải bằng công nghệ hay kỹ thuật mới.

Câu chuyện những lá trà già ở các bản vùng cao miền núi phía Bắc mà chị Nguyễn Đặng Tuấn Minh, giám đốc tổ chức hỗ trợ KisStartup, kể trong tọa đàm cho thấy tài trợ mấu chốt lại không phải ở công nghệ cao siêu mà nhiều khi chỉ là công nghệ rất bình thường, với nguồn ngân sách eo hẹp. Hằng năm, ở xã Bản Liền (Lào Cai) người dân mặc nhiên cắt bỏ toàn bộ lá trà già để dưỡng cây, nhưng khi Dự án LIF mà KisStartup vận hành đặt câu hỏi “vậy có thể làm gì với lá trà già?” – chính câu hỏi đó chứ không phải công nghệ mới – mở ra hướng đi không ngờ.

“Một nhà khoa học gợi ý công nghệ khử chát, một kỹ thuật không có gì mới mẻ trong nghiên cứu khoa học và công nghệ trong phòng thí nghiệm, nhưng chưa ai từng thử áp dụng ở nơi xa xôi này. Người dân làm thử và kết quả tạo ra một loại trà không còn vị chát, hợp khẩu vị phụ nữ, bán được ngay trên thị trường”, chị Tuấn Minh kể. Lá trà già – thứ từng bị coi là rác thải – nhanh chóng trở thành nguồn thu mới cho các hộ kinh doanh ở Bản Liền.

Câu chuyện của Dự án LIF cho thấy, đổi mới sáng tạo chưa chắc đã bắt đầu từ ngân quỹ tài trợ khổng lồ. Thứ tạo ra thay đổi ở đây là cách tài trợ: câu hỏi được đặt đúng; giải pháp được thử nghiệm ngay trên tay người dùng; và sản phẩm cuối cùng phải được thị trường chấp nhận.

Nghiên cứu kết thúc bằng tri thức mới, còn đổi mới chỉ bắt đầu khi tri thức đó được dùng.

Việt Nam đang đặt mục tiêu nâng mức chi cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo lên 2–3% GDP, một con số hào phóng gấp 4-5 lần so với mức chi thực tế hiện nay. Nhưng như các diễn giả tại tọa đàm nhấn mạnh, không phải cứ đổ thêm tiền vào nghiên cứu là tự động tạo ra đổi mới. Cách thiết kế tài trợ thậm chí còn quan trọng hơn. Các dự án tài trợ cho đổi mới sáng tạo chỉ đạt khi tri thức đi được đến người dùng. Do đó, dự án phải được thiết kế để giải bài toán thực, không chỉ bài toán trong phòng thí nghiệm.

Đó chính là tinh thần của đổi mới sáng tạo và cũng là điều mà hệ thống tài trợ của Việt Nam hiện nay còn thiếu. Muốn hệ thống tài trợ cho đến được tay người dùng cần có một sự “đảo chiều tư duy”: đổi mới không xoay quanh công nghệ, hay nhà khoa học, mà phải xoay quanh bài toán mà xã hội cần giải quyết. Nếu tài trợ vẫn được thiết kế xoay quanh “đầu vào nghiên cứu” thay vì “đầu ra sử dụng”, kết quả sẽ vẫn dừng lại ở phòng thí nghiệm.

Và để làm được điều đó, trước khi rót vốn tài trợ, câu hỏi một quỹ tài trợ cho đổi mới sáng tạo đặt ra phải đúng ngay từ đầu: Ai sẽ dùng giải pháp này? Xã hội, người dùng có thật sự cần giải pháp đó không? Họ sẽ dùng theo cách nào? Họ có được lợi ích gì từ việc áp dụng nó? Có những rào cản nào khiến họ không muốn sử dụng? v.v Những câu hỏi này tưởng như đơn giản, nhưng lại điều rất ít dự án ở Việt Nam đặt ra.

Lấy người dùng làm trung tâm

Khi đảo chiều tư duy “đổi mới xoay quanh nhu cầu của người dùng”, các quỹ tài trợ cho đổi mới sáng tạo phát hiện ra rằng điều thị trường cần nhiều khi không phải công nghệ mới, mà là công nghệ phù hợp và khả thi để thương mại hóa.

Bài toán phụ phẩm cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long trong chương trình Aus4Innovation là ví dụ điển hình. Mỗi năm, ĐBSCL sản xuất gần hai triệu tấn cá tra, nhưng khi chế biến, tới 60% con cá bị bỏ đi – gồm đầu, xương, vây và nhất là máu cá, thứ hầu như không ai thu gom nổi, bị thải xuống cống trở thành một bài toán môi trường khổng lồ.

Giải pháp sấy chân không phụ phẩm thành bột cá để làm thức ăn chăn nuôi nghe có vẻ đơn giản, nhưng điểm thực sự khó nằm ở yêu cầu của thị trường. Các doanh nghiệp chế biến thương mại và nhà máy thức ăn chăn nuôi đòi hỏi rằng hàm lượng protein trong bột cá khô này phải ổn định ở mức 60%, với sai số rất nhỏ, trong khi thực tế không phải lúc nào cũng có thể lấy đầu cá, sấy khô, nghiền bột là xong. Các ao nuôi khác nhau, thời điểm thu hoạch khác nhau dẫn đến tỷ lệ protein trong các mẻ phụ phẩm thu được cũng khác xa nhau, chị Nguyễn Hương Thảo, Quản lý hợp phần Tài trợ Đổi mới sáng tạo của chương trình Aus4Innovation, chia sẻ.

Đây không còn là thách thức công nghệ, mà là thách thức thiết kế tài trợ: quỹ phải giúp cho dự án đặt đúng “đề bài sử dụng”, hỗ trợ dự án thử nghiệm – hiệu chỉnh – chuẩn hóa cho tới khi sản phẩm được thị trường chấp nhận. Nhờ đó, giải pháp công nghệ rất bình thường có thể tạo ra tác động lớn.

Muốn hệ thống tài trợ đến được tay người dùng cần có một sự “đảo chiều tư duy”: Đổi mới không xoay quanh công nghệ, hay nhà khoa học, mà phải xoay quanh bài toán xã hội cần giải quyết.

Hai câu chuyện phụ phẩm cá tra và lá trà già cho thấy một quỹ đổi mới tốt không chỉ cấp tiền, mà phải định hình cách dự án đi đến người dùng cuối. Đây cũng là điểm mờ trong việc tìm hiểu, đánh giá và tài trợ cho đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.

Ở Việt Nam, phần lớn dự án nghiên cứu dừng lại ở mức “có kết quả khả thi”, trong khi đổi mới sáng tạo – điều Chính phủ đang kỳ vọng trở thành động lực tăng trưởng mới – lại đòi hỏi một chặng đường dài hơn rất nhiều mới đến được bước thử nghiệm và thương mại hóa.

“Mọi người thường tập trung rất nhiều vào khâu nghiên cứu, chứ ít khi nhìn công nghệ trong một giải pháp nhất định. Chỉ có công nghệ thôi thì không đủ để đảm bảo nó được đưa vào thực tế, vào cuộc sống”, chị Nguyễn Hương Thảo nói.

Và để đi đến đó, cấu trúc tài trợ phải thay đổi. Dự án không thể chỉ được đánh giá bằng số bài báo hay số mô hình được tạo ra. Nó phải được tiếp cận bằng các tiêu chí sống động hơn như mức độ chấp nhận của người dùng, năng lực vận hành của đơn vị tiếp nhận, khả năng mở rộng, hay tác động trong bối cảnh cụ thể.

Tài trợ như “bà mối” kết nối hệ sinh thái

Nhưng ngay cả cách làm đó cũng chưa đủ nếu thiếu một yếu tố nền tảng: quan hệ đối tác. Chị Thảo nhấn mạnh, các viện trường không thể tự mình vượt qua “thung lũng chết” để đưa công nghệ ra thị trường một cách đơn thương độc mã. Viện trường cần doanh nghiệp, chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, và cả những cơ quan nhà nước làm “người tiên phong” chịu chấp nhận rủi ro để thử nghiệm công nghệ mới. Đổi mới là công việc của mạng lưới – không phải của một cá nhân hay một nhóm nghiên cứu.

Chính vì vậy, theo kinh nghiệm của Aus4Innovation, một dự án chỉ có thể đi đến đích khi quỹ tài trợ giữ vai trò “bà mối” kết nối các bên, điều chỉnh kỳ vọng, và làm rõ trách nhiệm của từng mắt xích. Khi những mắt xích đó được kết nối đúng, ngay cả một công nghệ đơn giản – như khử chát lá trà hay chế biến phụ phẩm cá – cũng có thể tạo ra tác động kinh tế xã hội lớn cho địa phương.

Cần một cơ chế tài trợ nhắm đích, một hệ sinh thái đầy đủ cho các dự án đổi mới sáng tạo phát triển.

Với doanh nghiệp cũng vậy. Sở dĩ Phenikaa – tập đoàn hiếm hoi tạo ra được đến bảy công ty spin-off từ các sản phẩm công nghệ còn ở giai đoạn “phôi thai” – là vì họ có một lợi thế đặc biệt: trong cùng một hệ thống của tập đoàn có đủ trường đại học, nhà khoa học và doanh nghiệp.

Nói cách khác, Phenikaa tự tạo cho mình một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thu nhỏ. Nhờ vậy, khi một nhóm nghiên cứu có tiềm năng sẽ được bước một hành trình nhiều tầng nấc mà các dự án công thường… đi không hết: từ một kết quả nghiên cứu→ sản xuất thử→ sản xuất loạt nhỏ→ sản xuất đại trà. “Đó là một bước rất dài, không thể đi được nếu không có cơ chế tài trợ nhắm đích, một hệ sinh thái đầy đủ”, TS. Lê Anh Sơn, Phó Tổng Giám đốc Đại học Phenikaa cho biết tại tọa đàm.

Ở Việt Nam, đây chính là điểm mà hệ thống tài trợ công còn yếu: quá nhiều dự án đổi mới sáng tạo dừng lại ở báo cáo kết quả nghiên cứu thành công, quá ít dự án được nâng đỡ để bước sang thực nghiệm và thương mại hóa. Hệ thống tài trợ công thiếu các kết nối quan trọng đối với thị trường, doanh nghiệp và ngành công nghiệp. Nhìn lại toàn cảnh, có thể thấy: những gì Việt Nam thiếu không phải là năng lực công nghệ hay tinh thần sáng tạo. Cái khuyết là một cấu trúc tài trợ đủ thông minh để dẫn dắt các nỗ lực đó đi vào đời sống.

Nghiên cứu và đổi mới khác nhau ở đích đến

Nhưng để hiểu vì sao cách thiết kế tài trợ lại quan trọng đến vậy, cần quay lại một nhầm lẫn phổ biến là nghiên cứu và đổi mới sáng tạo không phải là một. Ở Việt Nam, hai khái niệm này thường được dùng như hai từ thay thế cho nhau. Nhưng như các diễn giả giải thích tại tọa đàm, nghiên cứu kết thúc bằng tri thức mới, còn đổi mới chỉ bắt đầu khi tri thức đó được dùng. Nếu không có cơ chế tài trợ cho phép nhóm nghiên cứu phải bám sát người dùng, phải thử, phải sai, phải điều chỉnh… thì công nghệ dù tốt đến đâu cũng sẽ nằm lại không đến được thị trường.

Đổi mới sáng tạo đòi hỏi một hệ thống khác hẳn cách quản lý khoa học truyền thống. Hệ thống đó phải chấp nhận rủi ro, phải có tầm nhìn dài hạn, phải đo lường hiệu quả bằng KPI từ phía người dùng chứ không chỉ số lượng bài báo hay số lần nghiệm thu.

Việt Nam sắp có thêm hàng loạt quỹ tài trợ mới – từ quỹ đổi mới sáng tạo quốc gia với ngân sách 2000 tỉ đồng đến các quỹ cấp tỉnh. Nhưng nhiều tiền mà cơ chế tài trợ vẫn cũ thì chúng ta sẽ nhận lại những kết quả cũ. Nếu muốn biến tham vọng tài trợ cho đổi mới sáng tạo thành động lực tăng trưởng thực sự, phải thay cách tài trợ.

Kinh nghiệm của các mô hình tiên tiến như DARPA (Mỹ) và các chương trình đã triển khai thành công tại Việt Nam như Aus4Innovation (Úc) đều cho thấy một quỹ đổi mới tốt là quỹ được thiết kế để buộc dự án đi đến người dùng cuối, chứ không dừng lại ở đầu vào hay báo cáo.


Bài học từ Aus4Innovation: Bốn yếu tố tạo nên một quỹ đổi mới hiệu quả


Từ chia sẻ của Chương trình Đổi mới sáng tạo Aus4Innovation tại tọa đàm, có thể rút ra bốn kinh nghiệm then chốt trong thiết kế và vận hành quỹ:

1. Đặt đúng câu hỏi ngay từ đầu. Mọi dự án phải bắt đầu từ một nhu cầu thực tiễn, với các câu hỏi căn bản như: Ai sẽ sử dụng giải pháp? Mức độ chấp nhận ra sao? Điều kiện triển khai có phù hợp không? v.v Nếu câu hỏi nghiên cứu không xuất phát từ nhu cầu thực, dự án rất dễ dừng lại ở phòng thí nghiệm và không đi đến thị trường.

2. Xây dựng quan hệ đối tác “đúng và đủ”. Quỹ tài trợ không chỉ cấp kinh phí mà còn phải đóng vai trò “kiến tạo mạng lưới”, giúp kết nối các đối tác cần thiết để dự án vận hành trọn vẹn.

3. Quy trình quản lý chặt chẽ, minh bạch và linh hoạt. Các dự án cần KPI rõ ràng, cơ chế giám sát thường xuyên (chẳng hạn họp định kỳ 6 tuần/lần), và báo cáo tiến độ nhất quán. Đổi mới sáng tạo luôn có rủi ro, nhưng rủi ro nhưng giám sát tốt giúp nhận diện lệch hướng sớm và điều chỉnh kịp thời.

4. Kế hoạch chuyển giao ngay từ giai đoạn khởi động. Một dự án đổi mới chỉ thực sự có ý nghĩa khi có đơn vị tiếp nhận – doanh nghiệp, cơ quan vận hành hoặc thị trường. Việc chuẩn bị sớm cho chuyển giao (mô hình kinh doanh, năng lực vận hành, thị trường mục tiêu, chi phí duy trì…) giúp sản phẩm không “chết yểu” sau khi kết thúc tài trợ.

(xem thêm)

Bảo Như – Ngô Hà

Bài đăng KH&PT số 1374 (số 50/2025)

Authors

(Visited 18 times, 4 visits today)