Chuyển đổi số trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam
Từ xây dựng nền tảng dữ liệu tích hợp, hoàn thiện hành lang pháp lý, đến bảo đảm an ninh mạng và mở rộng hợp tác quốc tế, Việt Nam có thể hội nhập về số hóa trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Năng lượng nguyên tử là lĩnh vực vốn đã đặt yêu cầu về độ an toàn, tin cậy và minh bạch ở mức rất cao. Do đó, chuyển đổi số không chỉ giúp tối ưu hóa vận hành, giám sát và ra quyết định trong ngành NLNT mà còn góp phần hiện đại hóa phương thức quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả pháp lý và đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của xã hội về tính công khai, minh bạch. Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA) đã xác định chuyển đổi số là một trong những trụ cột chiến lược trong việc củng cố hạ tầng an toàn hạt nhân toàn cầu. Nhiều quốc gia tiên tiến đang từng bước thay thế các mô hình quản lý truyền thống bằng hệ thống tích hợp số, sử dụng dữ liệu thời gian thực để cải thiện hiệu lực giám sát, giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa nguồn lực. Sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ số – từ thiết kế 3D/4D, mô phỏng vận hành, đến các hệ thống phân tích dữ liệu lớn – đang làm thay đổi sâu sắc cách thức thiết kế, xây dựng và quản lý các cơ sở hạt nhân.
Tại Việt Nam, việc đưa nội dung chuyển đổi số vào Điều 7 của Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi năm 2025) đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy chính sách. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đòi hỏi phải có cách tiếp cận toàn diện và bài bản. Bên cạnh những ý kiến ủng hộ, vẫn tồn tại một số quan điểm cho rằng: ngành năng lượng nguyên tử vốn dĩ đã ứng dụng công nghệ thông tin rất sâu rộng – từ soạn thảo văn bản, thiết kế kỹ thuật đến mô hình ảo – nên không nhất thiết cần phải đưa nội dung chuyển đổi số vào luật; ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng việc số hóa toàn diện từ giai đoạn xây dựng chính sách, quy hoạch cho đến thiết kế, vận hành là điều bất khả thi do tính phức tạp và đặc thù của NLNT.
Vậy Việt Nam nên ứng xử như thế nào trước hai luồng quan điểm này? liệu việc chuyển đổi số trong lĩnh vực NLNT Việt Nam có phải là “té nước theo mưa” ? và liệu chúng ta có thể học hỏi gì từ kinh nghiệm quốc tế của các tổ chức như IAEA, OECD/NEA cũng như các quốc gia có nền công nghiệp hạt nhân phát triển như Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada và Phần Lan?
Việt Nam nên bắt đầu từ những mảng có dữ liệu sẵn có và dễ chuẩn hóa, để hình thành hệ thống quản lý số hiệu quả, làm nền tảng cho việc mở rộng sang các mảng chuyên sâu và nhạy cảm như thiết kế, vận hành và ứng phó sự cố.
Hiểu về chuyển đổi số lĩnh vực năng lượng nguyên tử
Có thể thấy các quốc gia có nền công nghiệp hạt nhân tiên tiến đều đầu tư cho hạ tầng số nhằm hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước mà một số thực hành điển hình là phát triển các hệ thống dữ liệu tích hợp, tự động hóa và số hóa quy trình, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu, trách nhiệm cập nhật và chia sẻ dữ liệu.
1. Hệ thống dữ liệu tích hợp. Tại Pháp, Cơ quan An toàn hạt nhân và Bảo vệ bức xạ (ASNR), tổ chức mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tổ chức Cơ quan An toàn hạt nhân (ASN) và Viện Bảo vệ bức xạ và An toàn hạt nhân (IRSN) vào năm 2024, duy trì hệ thống dữ liệu số hóa, công khai kết quả quan trắc, báo cáo sự cố và cấp phép trên nền tảng mạng. Qua đó, mọi người có thể theo dõi tình trạng an toàn phóng xạ tại địa phương theo thời gian thực.
Trang web của ASNR liệt kê mục Dịch vụ điện tử (Téléservices), bao gồm: Báo cáo sự cố; Các thủ tục cấp phép, đăng ký, báo cáo giám sát… Điều này cho thấy ASN/ASNR đã phát triển một nền tảng mạng cho phép cơ quan, tổ chức và công chúng từ xa có thể gửi báo cáo sự cố, nộp hồ sơ xin phép, truy cập dữ liệu quan trắc.

Bên cạnh đó, IRSN đã áp dụng hệ thống quản lý kiểm kê các nguồn bức xạ SIGIS (Système Informatique de Gestion de l’Inventaire des Sources radioactives) nhằm số hóa và công khai danh mục nguồn phóng xạ, giấy phép liên quan, vận chuyển (xuất nhập khẩu, mua/bán,…), đồng thời cho phép tất cả các bên truy cập và làm các thủ tục với nguồn phóng xạ. IRSN cũng triển khai mạng lưới quốc gia về đo lường bức xạ môi trường RNM (Réseau National de Mesures) để thu thập dữ liệu phóng xạ môi trường và công bố các báo cáo thường niên (2021–2023) trên nền tảng điện tử.
Hằng năm, ASNR phát hành báo cáo an toàn hạt nhân và phóng xạ mà những ai quan tâm có thể tải và tham khảo toàn văn qua PDF trên website, trong đó có phần “Faits marquants” (thông tin nổi bật), dữ liệu giám sát, đánh giá sự cố… Tất cả đều được số hóa và công khai.
Tại Hàn Quốc, Viện An toàn hạt nhân (KINS) vận hành hệ thống thông tin tích hợp quốc gia trong an toàn hạt nhân NSIIMS giúp kết nối tổ chức vận hành, tổ chức hỗ trợ kỹ thuật và cơ quan pháp quy. KINS cũng công khai thông tin an toàn hạt nhân thông qua hệ thống thông tin an toàn hạt nhân quốc gia NSIC, trong đó có tích hợp dữ liệu giám sát, cấp phép, hồ sơ an toàn… và chia sẻ với tổ chức vận hành, cơ quan cấp phép và công chúng.
Ở các quốc gia có nền công nghiệp hạt nhiên tiên tiến, đều đầu tư cho hạ tầng số mà một số thực hành điển hình là phát triển các hệ thống dữ liệu tích hợp, tự động hóa và số hóa quy trình, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu, trách nhiệm cập nhật và chia sẻ dữ liệu.
Cơ quan này cũng chịu trách nhiệm về các hoạt động an toàn hạt nhân theo Luật An toàn Hạt nhân Hàn Quốc (Nuclear Safety Act), bao gồm giám sát an toàn, cấp phép vận hành và duy trì hiệu lực pháp quy.
2. Tự động hóa và sốhóa quy trình. Tại Mỹ, Cơ quan Pháp quy hạt nhân Quốc gia (NRC) sử dụng hệ thống truy cập và quản lý tài liệu toàn cơ quan ADAMS để lưu trữ, phân tích, tra cứu toàn bộ tài liệu cấp phép, giám sát và báo cáo sự cố, một hệ thống được thiết kế để tuân theo quy định lưu trữ của Cục Lưu trữ Quốc gia Mỹ (NARA) nhằm đảm bảo tính toàn vẹn, tra cứu và truy xuất của các văn bản cấp phép, quyết định, báo cáo chính thức. Kể từ tháng 4/2000, ADAMS cho phép họ lưu trữ giấy tờ chính thức, bao gồm: Tất cả hồ sơ chưa phân loại (unclassified) liên quan đến hoạt động cấp phép, giám sát, nghiên cứu, văn bản kỹ thuật…; Tất cả giấy phép cấp cho nhà máy điện hạt nhân, báo cáo kiểm tra, sự cố, thư từ chính thức giữa NRC và các tổ chức vận hành, cùng các báo cáo an toàn (NUREG-series)… ADAMS có giao diện trực tuyến kiểu “Web-based” từ tháng 10/2010 giúp người dùng tra cứu đầy đủ hồ sơ; sử dụng lọc theo danh mục (docket numbers, tên tài liệu, ngày phát hành…); xem, tải xuống trực tiếp các tệp tài liệu dạng PDF hoặc TIFF.
Từ đầu năm 2025, NRC đã ra mắt công cụ ADAMS Public Search, cải tiến về tìm kiếm nhanh, giao diện hiện đại, bộ lọc nâng cao, báo cáo, chia sẻ đường dẫn trực tiếp tới tài liệu. Khi đó, người truy cập có thể tìm được trong hệ thống các hướng dẫn an toàn, chính sách pháp quy, các báo cáo NUREG (báo cáo đánh giá kỹ thuật), báo cáo kiểm định, giám sát hoạt động, báo cáo sự cố, sự kiện… ADAMS hỗ trợ nhiều loại tài liệu công khai, bao gồm báo cáo sự cố với hơn ba triệu tài liệu kể từ 1999.
Vậy ai có thể truy cập ADAMS? Ngoài những bên dĩ nhiên như các thành viên của tổ chức NRC khi đánh giá hồ sơ cấp phép, giám sát và các tổ chức vận hành để truy cập hướng dẫn, báo cáo kiểm tra thì công chúng và chuyên gia cũng có thể tra cứu dữ liệu pháp quy và kỹ thuật.

Ở Phần Lan, Cơ quan Giám sát an toàn hạt nhân Quốc gia (STUK) ứng dụng nền tảng số cho cấp phép, giám sát và lưu trữ tài liệu kỹ thuật của các lò phản ứng. Hiện nay họ triển khai dự án đổi mới hệ thống thông tin STURE tích hợp giữa giám sát và cấp phép để nhằm đem lại sự minh bạch, thuận tiện cho tổ chức vận hành trong các thủ tục cấp phép và giám sát. Hệ thống này được thiết kế để tích hợp nhiều tính năng, như cấp phép (phát triển mô-dun xử lý đơn cấp phép an toàn bức xạ); giám sát (lập hồ sơ, theo dõi nhà máy, thiết bị và nguồn bức xạ); theo dõi phơi nhiễm đối với cá nhân; quản lý hồ sơ và phân loại dữ liệu tập trung cho cả giám sát bức xạ và hạt nhân.
Mặt khác, hệ thống có thể cung cấp dịch vụ điện tử cho tổ chức và chuyên gia, nên hoàn toàn phù hợp với việc lưu trữ và truy vấn tài liệu kỹ thuật. Hệ thống này được thiết kế cho cả lĩnh vực y tế – công nghiệp và hướng đến tích hợp giám sát hạt nhân.
Để kiểm tra hiệu quả áp dụng, Phần Lan đã khảo sát và đi đến kết luận là giải pháp tổng thể tích hợp các khía cạnh công việc như giám sát, cấp phép, đăng ký nguồn phóng xạ và an toàn hạt nhân đem lại hiệu quả tối ưu, giúp đơn giản hóa các quy trình chuyên nghiệp và thủ tục pháp quy.
Thiết lập cơ chế phân quyền rõ ràng giữa cơ quan pháp quy (VARANS), tổ chức kỹ thuật (VINATOM), doanh nghiệp sử dụng bức xạ và các đơn vị công nghệ thông tin… giúp đảm bảo an toàn, trách nhiệm, minh bạch và bảo mật dữ liệu.
3. An toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. IAEA khuyến cáo bảo mật mạng phải là thành phần thiết kế tích hợp trong mọi hệ thống số ngành NLNT và hướng dẫn các quốc gia thành viên xây dựng chiến lược quốc gia tích hợp bảo mật máy tính, phát triển các chương trình bảo mật để bảo vệ hệ thống số quan trọng về an toàn và an ninh. IAEA định nghĩa rõ tài sản số có nội dung nhạy cảm SDA (Sensitive Digital Assets) là các tài sản kỹ thuật số quan trọng; yêu cầu lập cấu trúc bảo mật (defensive computer security architecture) xác định cấp độ bảo mật theo vùng chức năng, thiết lập ràng buộc giao thông mạng giữa các vùng và triển khai biện pháp bảo vệ phù hợp. IAEA cũng đưa ra kỹ thuật bảo mật tiên tiến như phân tích rủi ro và đánh giá mối đe dọa, thiết kế tích hợp bảo mật “bảo vệ theo chiều sâu”, thiết kế các chính sách bảo mật, quản lý cấu hình và quy trình đánh giá liên tục.
EU yêu cầu các cơ sở hạt nhân tuân thủ hai khung quy định là Chỉ thị 2009/71/Euratom (sửa đổi năm 2014/87/Euratom) và Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân (GDPR), trong đó yêu cầu các quốc gia thành viên xây dựng hệ thống cấp phép, giám sát, báo cáo và đặc biệt là cung cấp thông tin cho công chúng một cách minh bạch.
Đầu tư hạ tầng bảo mật thông tin mạng ở cấp độ cao, đặc biệt cho các dữ liệu nhạy cảm và hệ thống vận hành lò phản ứng tương lai.
4. Trách nhiệm cập nhật và chia sẻ dữ liệu. Sau sự cố Fukushima, Nhật Bản đã siết chặt nghĩa vụ cung cấp và công khai hóa dữ liệu hoạt động nhà máy. Cơ quan An toàn hạt nhân và Công nghiệp (NISA) buộc Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) công khai toàn bộ hướng dẫn ứng phó sự cố và phải “nộp lại” các thủ tục khẩn cấp đầy đủ, không được phép che nội dung. Kết quả là 200 trang tài liệu sự cố ứng phó bị kiểm duyệt nội dung đã được công khai, chỉ che tên cá nhân, nhằm đảm bảo minh bạch và rút kinh nghiệm sâu rộng.
Bộ Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (MEXT) đã phối hợp với NISA để thu thập và tổng hợp dữ liệu phóng xạ, làm bản đồ phơi nhiễm, khí thải và nước biển, rồi công bố công khai. Kết quả cập nhật thường kỳ trên trang web của MEXT và được IAEA dùng để báo cáo quốc tế. IAEA giám sát chặt chẽ báo cáo định kỳ, mẫu nước cấp quốc tế, công khai dữ liệu cho các nước xung quanh có thể tiếp cận.
Lưu ý: Hiện nay ở Nhật Bản, NISA đã được thay thế bằng Cơ quan Pháp quy hạt nhân (NRA: Nuclear Regulatory Agency).
Gợi ý áp dụng cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm của các quốc gia có nền hạt nhân phát triển trên toàn cầu, có thể thấy chuyển đổi số đã đem lại cho họ sự hiệu quả, thông suốt trong vận hành, giám sát hoạt động đồng thời góp phần thúc đẩy hơn sự an toàn, công khai và minh bạch để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Việc đầu tư hạ tầng bảo mật thông tin mạng cấp độ cao là yêu cầu bắt buộc trong mọi giai đoạn phát triển ngành NLNT, đặc biệt nếu Việt Nam hướng đến xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Là quốc gia đi sau, Việt Nam không nên bỏ lỡ những bài học kinh nghiệm và các thực hành đã được chứng thực này. Vì vậy, để có được một nền năng lượng nguyên tử bền vững, an toàn và hiệu quả, Việt Nam có thể tham khảo và triển khai các bước cụ thể như sau:
1. Xây dựng lộ trình ba giai đoạn, bước đầu thí điểm tại một số cơ quan (2026), triển khai toàn ngành (2028) và tích hợp với các hệ thống quốc gia (2030).
Tóm tắt lộ trình như sau:
Giai đoạn | Mục tiêu | Năm thực hiện | Kết quả chính |
1. Thí điểm | Triển khai thử ở 3–5 cơ quan | 2025–2026 | Mô hình chuẩn, nền tảng dữ liệu số ngành NLNT |
2. Toàn ngành | Số hóa toàn bộ hoạt động quản lý | 2027–2028 | CSDL tập trung, hệ thống quản lý đồng bộ |
3. Tích hợp | Kết nối CSDL quốc gia và quốc tế | 2029–2030 | Chính phủ số, giám sát minh bạch và dữ liệu mở |
2. Ban hành thông tư kỹ thuật quy định chuẩn dữ liệu, định dạng, cách lưu trữ và quy trình cập nhật dữ liệu chuyên ngành NLNT.
Căn cứ pháp lý cho việc ban hành thông tư bao gồm: Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi năm 2025), Luật Giao dịch điện tử (2023), Luật An ninh mạng (2018) và Luật An toàn thông tin mạng (2015). Ngoài nội dung kỹ thuật có thể tham khảo các tài liệu của IAEA, thông tư cần có các nội dung chính sau đây: Chuẩn hóa dữ liệu; Quy trình cập nhật và lưu trữ dữ liệu; Quản lý, giám sát và chia sẻ dữ liệu.
Thông tư này là bước then chốt để đảm bảo an toàn thông tin và dữ liệu số hóa; Phục vụ công tác cấp phép, giám sát, cảnh báo và chia sẻ quốc tế; Góp phần thực hiện chuyển đổi số toàn diện ngành năng lượng nguyên tử.
3. Trên cơ sở ưu tiên số hóa các mảng có dữ liệu sẵn có, bao gồm quản lý nguồn phóng xạ, giấy phép thiết bị, quan trắc môi trường, từng bước mở rộng sang dữ liệu thiết kế, vận hành và sự cố.
Có thể thấy rằng, Việt Nam nên bắt đầu từ những mảng có dữ liệu sẵn có và dễ chuẩn hóa, để hình thành hệ thống quản lý số hiệu quả, làm nền tảng cho việc mở rộng sang các mảng chuyên sâu và nhạy cảm như thiết kế, vận hành và ứng phó sự cố. Dưới đây là hướng dẫn cụ thể cách Việt Nam có thể ưu tiên số hóa các mảng có dữ liệu sẵn có, như: Quản lý nguồn phóng xạ, Giấy phép thiết bị, Quan trắc môi trường; từng bước mở rộng sang các dữ liệu phức tạp hơn như: thiết kế, vận hành và sự cố của cơ sở hạt nhân.
Lộ trình triển khai cụ thể:
Giai đoạn | Nội dung ưu tiên | Công cụ cần thiết | Năm |
1 | Nguồn phóng xạ, thiết bị, giấy phép, quan trắc | CSDL tập trung, cổng điện tử, chuẩn dữ liệu | 2025–2026 |
2 | Thiết kế, vận hành, sự cố | Hệ thống lưu trữ kỹ thuật, báo cáo điện tử | 2027–2028 |
3 | Phân tích dữ liệu lớn, kết nối quốc tế (IAEA/NEA…) | AI, dashboard, hệ thống báo cáo tích hợp | 2029–2030 |
4. Thiết lập cơ chế phân quyền rõ ràng giữa các đơn vị: Cơ quan pháp quy (VARANS), tổ chức kỹ thuật (VINATOM), doanh nghiệp sử dụng bức xạ và các đơn vị công nghệ thông tin.
Việc phân quyền rõ ràng giúp đảm bảo an toàn, trách nhiệm, minh bạch và bảo mật dữ liệu, và là nền tảng cho hệ thống số hóa hiệu quả ngành năng lượng nguyên tử. Khi xác định một cơ chế phân quyền cần đảm bảo các nguyên tắc quan trọng, đó là Phân quyền theo chức năng pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp; Xác lập ranh giới kỹ thuật và mức độ truy cập dữ liệu rõ ràng; Phân quyền quản trị hệ thống phần mềm và cơ sở dữ liệu độc lập với quyền nghiệp vụ; Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát và log truy cập (audit trail).
Trên các nguyên tắc này, có thể áp dụng mô hình phân quyền:
– Quản lý cấp cao (Cấp phép và giám sát): Duyệt hồ sơ cấp phép, đình chỉ, kiểm tra tuân thủ; Truy cập toàn bộ dữ liệu, có quyền xem báo cáo, phê duyệt; Quản lý tiêu chuẩn kỹ thuật, biểu mẫu, log hệ thống.
– Phân tích kỹ thuật và tư vấn chuyên môn: Truy cập dữ liệu kỹ thuật, môi trường, thiết kế.
– Đơn vị vận hành và sử dụng bức xạ: Chỉ có quyền nhập, cập nhật dữ liệu đơn vị mình.
– Quản trị hệ thống và dữ liệu: Quản lý hạ tầng kỹ thuật: máy chủ, phần mềm, bảo mật; Không được truy cập dữ liệu nội dung nghiệp vụ; Có trách nhiệm sao lưu, khôi phục, ghi log, phân quyền kỹ thuật
– Giám sát an ninh mạng và bảo mật: Phê duyệt giải pháp bảo mật, rà soát sự kiện bất thường.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo và chuyển giao công nghệ, thông qua các dự án IAEA và mạng lưới ASEAN.
Việt Nam có thể nâng tầm hợp tác quốc tế về đào tạo và công nghệ hạt nhân thông qua việc chủ động trong chương trình IAEA (Dự án hợp tác kỹ thuật TC); tăng hiện diện trong mạng lưới ASEAN (ASEANTOM, trung tâm khu vực); Có chiến lược rõ ràng trong nước và phân bổ nguồn lực phù hợp.
Để tham gia hiệu quả các dự án TC, cần chú ý:
Mục tiêu và hành động | Các nội dung cụ thể |
Xác định nhu cầu quốc gia (CPF: Country Programme Framework) | Phối hợp với IAEA cập nhật CPF Việt Nam (giai đoạn 2023–2028), trong đó ưu tiên rõ các lĩnh vực: an toàn hạt nhân, ứng dụng bức xạ, hạ tầng nhân lực, chuyển đổi số. |
Chủ động đề xuất dự án mới hoặc tham gia dự án khu vực | Việt Nam có thể đăng ký các dự án song phương (quốc gia), khu vực (RAS) hoặc toàn cầu. |
Ví dụ: các dự án như RAS9079, RAS9082, RAS9090… thuộc chương trình hợp tác kỹ thuật của IAEA | |
Cử chuyên gia và học viên tham dự | Gửi cán bộ tham gia các khóa huấn luyện, đào tạo, nghiên cứu, thực tập do IAEA tổ chức. |
Tăng cường nữ chuyên gia, chuyên gia trẻ để tận dụng chương trình hỗ trợ | |
Mời chuyên gia quốc tế đến Việt Nam | Đề xuất IAEA cử chuyên gia kỹ thuật đến hỗ trợ tại chỗ, đặc biệt trong các nội dung như: phân tích sự cố, xây dựng hướng dẫn kỹ thuật, chuyển đổi số… |
Trong giai đoạn 2025-2029, một số dự án tiêu biểu mà Việt Nam có thể tham gia các dự án của IAEA như: Tăng cường cơ sở hạ tầng điều hành quốc gia (RAS9079) để Hỗ trợ VARANS xây dựng hệ thống cấp phép, giám sát và đào tạo cán bộ pháp quy; Dự án Tăng cường an toàn hạt nhân trong lắp đặt các hệ thống (RAS9090) nhằm xây dựng năng lực bảo mật số và ứng phó sự cố mạng; Dự án Số hóa cơ sở hạ tầng hạt nhân (INT2023) về ứng dụng chuyển đổi số trong vận hành, đào tạo và thiết kế lò phản ứng; Dự án Phát triển nguồn nhân lực (RAS9087) để xây dựng chương trình đào tạo bài bản, hợp tác đại học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp.
Việt Nam cũng có thể tham gia các mạng lưới chuyên môn ASEAN liên quan đến hạt nhân; thiết lập các chương trình trao đổi khu vực.
6. Đầu tư hạ tầng bảo mật thông tin mạng ở cấp độ cao, đặc biệt cho các dữ liệu nhạy cảm và hệ thống vận hành lò phản ứng tương lai. Trong đó có một số trụ cột đầu tư hạ tầng bảo mật: Xây dựng kiến trúc mạng nhiều lớp, phân vùng bảo mật chặt chẽ; Tăng cường các biện pháp kỹ thuật cốt lõi; Thiết lập Trung tâm An ninh mạng ngành NLNT (CSIRT: Computer Security Incident Response Team); Nâng cao năng lực và quy trình quản trị bảo mật; Hợp tác quốc tế và Tiêu chuẩn hóa theo IAEA.
Các kế hoạch đầu tư vào nội dung này có thể chia thành các giai đoạn: 2025–2026 là phân tích rủi ro bảo mật ngành hạt nhân, triển khai tách mạng và tường lửa phân vùng với mục tiêu có thể kiểm soát truy cập chặt chẽ, chặn xâm nhập từ Internet; giai đoạn 2027–2028 thành lập cơ sở dữ liệu CSIRT của ngành NLNT, mua sắm các hệ thống IDS/IPS, SIEM nhằm phát hiện – phản ứng – điều tra tấn công mạng chuyên biệt; giai đoạn 2029–2030 tập trung vào hoàn thiện trung tâm dữ liệu bảo mật cao, tích hợp với vận hành lò phản ứng thử nghiệm (nếu có) nhằm tăng cường an ninh tổng thể cho vận hành nhà máy điện hạt nhân tương lai.
Nhìn tổng thể, việc đầu tư hạ tầng bảo mật thông tin mạng cấp độ cao là yêu cầu bắt buộc trong mọi giai đoạn phát triển ngành NLNT, đặc biệt nếu Việt Nam hướng đến xây dựng nhà máy điện hạt nhân sau 2030; cần được tích hợp sớm vào quy hoạch, thiết kế và chính sách phát triển điện hạt nhân, không phải chỉ thực hiện sau khi có cơ sở vật lý.
Kết luận
Chuyển đổi số trong lĩnh vực NLNT không chỉ là một lựa chọn mang tính thời đại, mà còn là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an toàn, hiệu quả và minh bạch trong quản lý nhà nước. Việc luật hóa nội dung này trong Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi năm 2025) là bước đi quan trọng, cần được cụ thể hóa tiếp theo bằng chiến lược triển khai rõ ràng, nguồn lực phù hợp và cơ chế phối hợp hiệu quả. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thành công của chuyển đổi số phụ thuộc vào việc xây dựng nền tảng kỹ thuật số tích hợp, ban hành quy chuẩn dữ liệu thống nhất, bảo đảm an toàn thông tin và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Với cách tiếp cận bài bản, Việt Nam hoàn toàn có thể hiện thực hóa mục tiêu xây dựng hệ sinh thái số trong ngành NLNT, hướng tới phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng.□
Chuyển đổi số trong lĩnh vực NLNT của Việt Nam đã có căn cứ pháp lý trong Điều 7 của Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), gồm sáu nhóm nội dung chính tại Điều 7: 1. Mục tiêu chuyển đổi số: Hướng tới công khai, minh bạch, liên thông, kịp thời và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Việc ứng dụng công nghệ số cần hỗ trợ kịp thời cho công tác cấp phép, thanh tra, cảnh báo sớm và truyền thông rủi ro. 2. Nền tảng số tích hợp: Là hạ tầng kỹ thuật thống nhất, lưu trữ và quản lý dữ liệu tổ chức, nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và các hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Yêu cầu nền tảng này bảo đảm tích hợp với các hệ thống dữ liệu quốc gia, chuyên ngành. 3. Số hóa thủ tục hành chính: Bao gồm khai báo, cấp phép, kiểm soát nhập khẩu – xuất khẩu, quản lý thiết bị, vật liệu phóng xạ và báo cáo chuyên ngành, tất cả đều thực hiện trên nền tảng số. 4. Bảo mật và an ninh mạng: Việc truy cập và sử dụng dữ liệu phải tuân thủ quy định về bí mật nhà nước, bảo vệ dữ liệu cá nhân, về an toàn thông tin và an ninh mạng. 5. Trách nhiệm cập nhật thông tin: Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp, cập nhật đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin trên nền tảng số. 6. Đảm bảo nguồn lực: Nhà nước đầu tư và duy trì hệ thống số, bao gồm hạ tầng kỹ thuật, phần mềm, nguồn nhân lực và quy trình vận hành. |
*TS. Lê Chí Dũng là chuyên gia pháp quy hạt nhân, Viện NLNTVN.
Bài đăng Tia Sáng số 15/2025