Những giá trị của kiến trúc thời Bao cấp
Những công trình kiến trúc thời bao cấp là một phần vốn văn hóa quan trọng của Hà Nội để xây dựng thương hiệu, bản sắc đô thị hướng tới kỷ nguyên mới của đất nước.

Đất nước thống nhất. Nhiệm vụ tái thiết sau chiến tranh cũng là cơ hội để kiến trúc Hà Nội bước sang trang mới – thời kỳ đỉnh cao của phong cách Hiện đại XHCN. Các tác phẩm có thể kể đến bao gồm: Cung Văn hóa Thiếu nhi (KTS Lê Văn Lân), Bưu điện Hà Nội (KTS Nguyễn Kim), Nhà khách Chính phủ (KTS Diêu Công Tuấn), Cải tạo Ga Hà Nội (KTS Hoàng Nghĩa Sang), Trụ sở Bộ Giáo dục (KTS Trần Thanh Bình), Khách sạn Thắng Lợi (KTS Quitana – Cuba), Cung văn hóa Lao động (KTS Isakovich – Liên Xô), v.v.
Tuy vậy, những công trình trong giai đoạn này đang đứng trước nguy cơ bị quên lãng. Được xây dựng kiên cố, xếp loại cấp 1 – tức niên hạn sử dụng trên 100 năm, nhưng trước sự tác động của thiên nhiên và chuyển động của xã hội, các công trình này vẫn khó lòng giữ được nguyên vẹn. Khí hậu nóng ẩm khắc nghiệt của vùng Bắc Bộ và nhu cầu sửa chữa – cơi nới cục bộ thay đổi liên tục khiến nhiều công trình bị xuống cấp, hủy hoại. Một số công trình như Nhà khách Chính phủ ở phố Lê Thạch, Trụ sở Nhà xuất bản Sự thật, nhiều nhà trẻ và trường học trong khu tập thể… nay đã bị phá hủy. Các công trình khác có nguy cơ bị “thôn tính” để trở thành trung tâm thương mại hay chung cư là có thật.
Nhóm những công trình được xây dựng trong giai đoạn 1975-1985 này hầu như chưa từng được đối xử như di sản, cũng như chưa từng được Hà Nội coi là một phần thương hiệu của mình. Năm 2021, Hội Kiến trúc sư Việt Nam từng phải gửi kiến nghị đến UBND TP Hà Nội về việc ứng xử với Công trình Cung Văn hóa Thiếu nhi Hà Nội cũ, trong đó nhấn mạnh việc cần giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa kiến trúc lịch sử và đương đại của Thủ đô trong quá trình phát triển.
Khái niệm “Giá trị di sản”
Hiến chương Burra, một trong những văn bản đầu tiên trên thế giới về bảo tồn các di sản kiến trúc, ra đời ở Australia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định được ý nghĩa, giá trị của một địa điểm/nơi chốn nào đó cần được bảo vệ. Việc hiểu biết sâu sắc về nó sẽ cho phép diễn đạt toàn bộ các giá trị của di tích trong một ý nghĩa văn hóa, từ đó tác động đến chính sách và ra quyết định (Buckley, 2019). KTS. Lê Thành Vinh với nhiều kinh nghiệm thực hành bảo tồn ở Việt Nam cũng cho rằng, việc nhận diện giá trị là công việc quan trọng trước nhất trong các hoạt động bảo tồn di tích. Điều này không chỉ giúp nhà hoạch định chính sách quyết định liệu có nên giữ lại công trình đó hay không mà còn là trùng tu nó như thế nào.
Với điều kiện khó khăn, các công trình giai đoạn 1975-1986 được thiết kế với phương châm mà cũng là mục tiêu chất lượng là “thích dụng, bền vững, kinh tế, đẹp trong điều kiện có thể” (Đặng Hoàng Vũ, 2016). Tính thẩm mỹ và tính khoa học không dễ tách bạch bởi ở các công trình này, hình thức bên ngoài đi liền với công năng sử dụng bên trong.
Vậy “ý nghĩa, giá trị” của một địa điểm, nơi chốn có thể được xem xét dưới những khía cạnh nào? Ở mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa, mỗi thời điểm, người ta lại đưa ra những danh sách khác nhau. Ví dụ, tiếp nối hiến chương Burra, các nhà bảo tồn Australia đưa ra hệ thống các giá trị cho một di tích, bao gồm: giá trị lịch sử, giá trị thẩm mỹ, giá trị khoa học, giá trị xã hội, giá trị tinh thần, nguồn gốc di tích, quá trình tồn tại, tình trạng hiện tại, mức độ hiếm có, sự trọn vẹn, hỗ trợ đời sống (Buckley, 2019). Charles David Throsby, nhà kinh tế văn hóa người Úc, cho rằng bảo tồn di sản bắt nguồn từ quan niệm rằng chúng ẩn chứa giá trị tiềm ẩn tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, dù là về mặt xã hội hay kinh tế. Những giá trị tiềm ẩn đó là lịch sử, tinh thần, thẩm mỹ, xã hội và biểu tượng. Bernard Feilden, kiến trúc sư bảo tồn người Anh lại cho rằng ba giá trị quan trọng nhất của một công trình là: cảm xúc, văn hóa, sử dụng.
Còn trong Luật Di sản của Việt Nam (2024) thì nhận định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Có thể thấy, Luật Di sản văn hóa nhấn mạnh đến các giá trị: lịch sử, văn hóa, khoa học.

Tuy những quan điểm trên có thể khác nhau, nhưng cũng có một số điểm chung mà tất cả đều đồng thuận. Ngoài ra, trong nhiều tình huống các khía cạnh trong giá trị của một di sản cũng hòa lẫn, không dễ gì phân định rạch ròi. Rốt cục, trong văn kiện Nara về tính xác thực – kim chỉ nam cho những nhà bảo tồn văn hóa, họ cũng hết sức linh hoạt trong đánh giá một di sản: “Lòng tôn trọng với mọi văn hóa đòi hỏi mỗi di sản văn hóa phải được suy xét và phán xét theo các tiêu chí đặc trưng cho bối cảnh văn hóa mà trong đó di sản kia tọa lạc”. Với trường hợp các công trình công cộng mang phong cách hiện đại XHCN, tác giả sẽ vừa xem xét những khía cạnh chung nhất trong các quan điểm nói trên, đồng thời tính đến cả những đặc trưng về bối cảnh đã tạo nên những “di sản” này, đó là: lịch sử, thẩm mỹ, giá trị khoa học, văn hóa, xã hội và biểu tượng.
Sự hòa quện của giá trị lịch sử, thẩm mỹ và khoa học
Các công trình được xây dựng giai đoạn 1975-1986 là một phần quan trọng của lịch sử của thành phố Hà Nội cũng như của Việt Nam, nó vừa là kết quả, vừa là chứng nhân cho sự kiên cường của người dân trong một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ và biến động – vừa đối mặt với chiến tranh phía Tây Nam và phía Bắc, vừa xây dựng xã hội theo mô hình XHCN.
Trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung – thời Bao cấp, các công trình công cộng, khu tập thể, nhà máy đều được xây dựng hoàn toàn từ ngân sách nhà nước, phân bổ theo kế hoạch kinh tế – xã hội 5 năm của Đảng. Bởi vậy, vật liệu xây dựng khan hiếm và không đầy đủ ngay từ đầu, thiếu nhiều trang thiết bị công trình như thang máy, điều hòa không khí. Với điều kiện khó khăn, các công trình giai đoạn 1975-1986 được thiết kế với phương châm mà cũng là mục tiêu chất lượng là “thích dụng, bền vững, kinh tế, đẹp trong điều kiện có thể” (Đặng Hoàng Vũ, 2016). Tính thẩm mỹ và tính khoa học không dễ tách bạch bởi ở các công trình này, hình thức bên ngoài đi liền với công năng sử dụng bên trong.
Phong cách Hiện đại XHCN bắt đầu từ trường Đại học Bách khoa Hà Nội (1961), phát triển cao trào vào những năm 1975-1986. Phong cách này được tạo ra bởi thế hệ KTS được đào tạo dưới chế độ XHCN ở trong và ngoài nước và một số KTS nước ngoài. Nếu như các phân đoạn trước vẫn còn phảng phất đâu đó tư duy kiến trúc thời Pháp thuộc, thì từ năm 1975, kiến trúc công trình công cộng ở Hà Nội có sự bứt phá rõ rệt, khẳng định vị thế quốc gia trong thời đại XHCN trên bình diện quốc tế. Phong cách này là một cuộc cách mạng triệt để (Phạm Thúy Loan, 2021; Nguyễn Đức Vinh, 2024), rũ bỏ hoàn toàn hình thức kiến trúc thực dân. Một số đặc điểm chính của kiến trúc Hiện đại XHCN bao gồm: bố cục tạo hình điểm – tuyến – diện – khối, thể hiện ở hình dáng công trình có khối tích bề thế, hoành tráng; hình khối kiến trúc ngay ngắn, sạch sẽ; đường nét hiện đại ngay thẳng, khỏe khoắn, mạnh mẽ, trang nghiêm, giảm thiểu tối đa chi tiết trang trí.
Các công trình công cộng giai đoạn 1975-1986 ra đời để đáp ứng rộng rãi quần chúng nhân dân, thay vì chỉ phục vụ các nhóm xã hội đặc thù, đặc biệt là người Pháp.
Cách thiết kế này không chỉ song hành với tinh thần XHCN trong phong cách tương tự đang thịnh hành ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Trung Quốc mà còn phù hợp với tình thế thời bấy giờ phải đặt hiệu quả sử dụng của công trình lên hàng đầu. Theo đó, công năng phải chặt chẽ và khoa học để đạt hiệu quả hoạt động tốt nhất trong điều kiện kinh tế eo hẹp. Ta có thể thấy các công trình sử dụng triệt để công nghệ bê tông đúc sẵn, cho phép giải phóng tầng một và phân chia chức năng các tầng linh hoạt. Người kiến trúc sư cũng phải tính toán vật lý kiến trúc rất kĩ lưỡng để đảm bảo điều hòa không khí; xây dựng và áp dụng quy chuẩn nghiêm cẩn để tối ưu diện tích sử dụng.
Dù chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Hiện đại XHCN từ Đông Âu, nhưng các công trình có sự điều chỉnh trong điều kiện khí hậu, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Theo đó, có nhiều chi tiết kiến trúc vừa giải quyết vấn đề sinh khí hậu đặc thù của vùng Bắc Bộ và vừa thể hiện vẻ đẹp hình thức của công trình. Đó là tường hoa gió, lam chắn nắng, hành lang mở, khoảng hiên, sân vườn, giếng trời… để giảm bức xạ nhiệt trực tiếp, điều hòa không khí tự nhiên. Những giải pháp này có mối liên hệ mật thiết với các bộ phận của kiến trúc truyền thống như hiên, giại, vỉ ruồi… Giá trị khoa học về kiến trúc sinh khí hậu của kiến trúc giai đoạn 1975-1986 có ý nghĩa lớn đối với xu thế kiến trúc xanh và phát triển bền vững hiện nay.
Giá trị văn hóa – xã hội
Kiến trúc công tình công cộng giai đoạn 1975-1986 là minh chứng tiêu biểu cho Đề cương văn hóa 1943, một văn bản mang tính định hướng và diễn giải quá trình xây dựng văn hóa – văn nghệ Việt Nam nửa sau thế kỷ 20, cụ thể là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Nếu giá trị dân tộc và khoa học đã được đề cập ở phần trên thì khía cạnh đại chúng xứng đáng được dành một phần riêng. Trong đó, tính “đại chúng” ở đây thể hiện ở việc các công trình được xây dựng để phục vụ đầy đủ nhu cầu của các tầng lớp nhân dân: công sở, trường học các cấp, bệnh viện, sân bay, nhà ga khách sạn, cung thiếu nhi, cung văn hóa lao động, viện nghiên cứu, nhà thờ, bảo tàng, công viên Thống Nhất, Thủ Lệ,…Những công trình này được đặt ở những vị trí thuận tiện để người dân dễ tiếp cận. KTS Lê Văn Lân chia sẻ: “Trong những lần lập Quy hoạch chung Hà Nội, các công trình công cộng phục vụ quần chúng nhân dân luôn được ưu tiên ở những vị trí gần những tuyến không gian chính, nút giao thông quan trọng”. KTS Trần Thanh Bình cũng đồng ý rằng các công trình được xây dựng với sự chú trọng không gian đô thị xung quanh, có khoảng lùi cần thiết để đảm bảo tầm nhìn và khả năng tụ hợp quần chúng, đều đã bị mai một qua thời gian bởi hiện tượng xây chêm xen xung quanh công trình.

So với thời Pháp thuộc, các công trình công cộng giai đoạn 1975-1986 ra đời để đáp ứng rộng rãi quần chúng nhân dân, thay vì chỉ phục vụ các nhóm xã hội đặc thù, đặc biệt là người Pháp. Từ Ấu trĩ viên với quy mô tương đương với một biệt thự hai tầng, trên khu đất đó đã phát triển thành một quần thể công trình Cung Thiếu nhi Hà Nội bề thế với diện tích sàn hơn 7000m2, nhà hát 520 chỗ. Đối tượng thụ hưởng tiện ích là mọi người dân, trẻ em, với chi phí không đáng kể hoặc miễn phí. Điều này khác biệt với giai đoạn Pháp thuộc, khi chỉ một số đối tượng có khả năng chi trả mới có thể thụ hưởng nhu cầu. Lý tưởng công bằng của xã hội, tính quảng đại quần chúng của các công trình đã tạo điều kiện để những người lao động bình thường, các em thơ từ các hoàn cảnh gia đình khác nhau đều có được cơ hội tiếp nhận văn hóa, giáo dục gần như tương đương nhau.
Các công trình công cộng qua thời gian sử dụng đã hình thành các nhóm xã hội, gắn kết với nơi chốn công trình. Đó là những cựu học sinh của Cung Thiếu nhi Hà Nội, sau này đã trở thành những ca sĩ, họa sĩ, kiến trúc sư… nổi tiếng như Thanh Lam, Hồng Nhung, Thành Chương, Trần Lương, Đào Hải Phong… Năm 2022, các thầy cô và cựu học sinh ban Mỹ thuật của Cung Thiếu nhi đã cùng nhau soạn cuốn sách “Từ vườn ươm nghệ thuật ấy”, trong đó chứng tỏ giá trị xã hội của hoạt động đào tạo năng khiếu mỹ thuật của Cung, thể hiện những giá trị tốt đẹp của chế độ xã hội, cũng như ươm mầm cho những tài năng nghệ thuật sau này, đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật của đất nước.
Đối với kiến trúc giai đoạn 1975-1986, giá trị biểu tượng của nó không chỉ nằm ở sự tưởng nhớ lãnh tụ, anh hùng dân tộc (với công trình quan trọng nhất có tính biểu tượng thời kì này là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt), mà còn là biểu tượng cho mối quan hệ của Việt Nam với quốc tế – điều ít người biết đến.
Tuy thời Pháp thuộc đã xuất hiện một số công trình lợi ích công cộng như bệnh viện, trường học, nhà trẻ, nhưng sau năm 1954, số lượng và quy mô các công trình này phát triển vượt bậc. Chúng cũng được quan tâm đầu tư và phát triển khá đồng đều ở các khu vực, cải thiện một bước đáng kể đời sống cư dân (Nguyễn Tất Thắng, 2024). Các công trình đó đã góp phần tạo dựng văn hóa, lối sống đô thị Hà Nội trong thời kỳ xây dựng nhà nước XHCN. Đó là những nhà trẻ, trường học phổ thông ở các khu tập thể, cho phép bố mẹ yên tâm đi làm ở các công sở hay nhà máy mới được xây dựng ven đô. Đó là những công viên, vườn hoa, tạo cảnh quan đô thị xanh đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của người dân, nhất là dịp cuối tuần. Đó là cung văn hóa thiếu nhi để trẻ em được đào tạo đầy đủ mọi mặt và phát triển năng khiếu; cung văn hóa lao động để các tầng lớp nhân dân lao động đều được thụ hưởng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa nhi, phụ sản, lão, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của các đối tượng tuổi, giới tính khác nhau. Những giá trị văn hóa, lối sống này là lành mạnh, tiến bộ, vẫn được tiếp tục đến ngày hôm nay.
Giá trị biểu tượng
Giá trị biểu tượng đề cập đến ý nghĩa và sức mạnh mà một di sản nắm giữ trong việc đại diện cho bản sắc văn hóa và ý nghĩa lịch sử. Giá trị này gắn chặt với cách mọi người nhận thức và kết nối với di sản của họ, thường gợi lên cảm giác về bản sắc, tưởng nhớ sự kiện và nhân vật lịch sử, niềm tự hào, sự gắn bó cộng đồng. Đối với kiến trúc giai đoạn 1975-1986, giá trị biểu tượng của nó không chỉ nằm ở sự tưởng nhớ lãnh tụ, anh hùng dân tộc (với công trình quan trọng nhất có tính biểu tượng thời kì này là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt), mà còn là biểu tượng cho mối quan hệ của Việt Nam với quốc tế – điều ít người biết đến.

Nhiều công trình công cộng trong giai đoạn này được xây dựng với sự viện trợ của các nước thuộc khối XHCN. Mối quan hệ với Liên Xô, ngoài Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Mối quan hệ với Cuba là Khách sạn Thắng Lợi, trường tiểu học Việt Nam- Cuba; với Tiệp Khắc là Cung Thiếu nhi Hà Nội… Những quốc gia thuộc khối tư bản chủ nghĩa nhưng có khuynh hướng thiên tả như Thụy Điển, Pháp, Hà Lan cũng viện trợ cho Việt Nam xây những công trình công cộng ở Hà Nội, đó là Thụy Điển là Bệnh viện Nhi, Pháp là Khoa Pháp- ĐHQGHN, Hà Lan là Trường PTTH Hà Nội Amsterdam. Điều này cũng cho thấy kiến trúc công trình công cộng thời kì 1975-1986 còn là biểu tượng cho đường lối “ngoại giao cây tre” đã xuyên suốt lịch sử hiện đại Việt Nam.
Các công trình công cộng giai đoạn 1975-1986 còn là biểu tượng cho sự thống nhất đất nước, hòa hợp dân tộc. Theo lời kể của KTS Trần Thanh Bình và KTS Lê Phước Anh về ông ngoại – KTS Tạ Mỹ Duật, sau ngày thống nhất đất nước, nhiều KTS miền Bắc vào công tác miền Nam và ngạc nhiên trước thành công của các đồng nghiệp ở miền Nam. Sau đó, theo chân các KTS quay về miền Bắc, kiến trúc hiện đại miền Nam đã ảnh hưởng đến kiến trúc công trình công cộng ở Hà Nội, trong đó có việc sử dụng vật liệu đá rửa ở bề mặt công trình, cũng như cách tiếp cận ứng xử với điều kiện sinh khí hậu và văn hóa bản địa. Phương thức thi công theo hướng công nghiệp hóa với những panel, tấm lớn, cấu kiện đúc sẵn của miền Bắc được bổ sung những giải pháp đổ tại chỗ của miền Nam tạo ra tính đa dạng trong chi tiết, hình khối. Kỹ thuật thi công hoàn thiện và xử lý nội thất đồng bộ của miền Nam góp phần nâng tính thẩm mỹ và tiện dụng cho các công trình ở miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng (Trần Thanh Bình, 2024). Như vậy, sự trao đổi, học hỏi giữa hai miền Nam – Bắc sau năm 1975 đã bước đầu tạo ra sự đối thoại, thống nhất về kiến trúc. Trong các ngành nghệ thuật, kiến trúc là ngành có ý thức hòa hợp dân tộc rất sớm.
Kiến trúc cũng góp phần tạo ra sự gắn kết cộng đồng với thời đại và không gian xã hội. Chúng là niềm tự hào, là kỷ niệm của mỗi người dân Hà Nội. KTS Lê Văn Lân chia sẻ: “Khi thiết kế Cung Thiếu nhi, tôi muốn thiếu nhi Thủ đô có một nơi thật đàng hoàng, tự tin trước thiếu nhi quốc tế”.
Giá trị khoa học về kiến trúc sinh khí hậu của kiến trúc giai đoạn 1975-1986 có ý nghĩa lớn đối với xu thế kiến trúc xanh và phát triển bền vững hiện nay.
Nhận diện giá trị là công việc quan trọng trong việc ghi nhận, đánh giá di sản, xem di sản có xứng đáng được bảo vệ hay không. Bài viết đã phân tích những giá trị của các công trình công cộng giai đoạn 1975-1986 ở Hà Nội, cụ thể: giá trị lịch sử, giá trị thẩm mỹ, giá trị xã hội, giá trị khoa học, giá trị văn hóa, giá trị biểu tượng. Với những giá trị này, di sản kiến trúc công trình công cộng giai đoạn 1975-1986 rất xứng đáng để ghi nhận, bảo vệ, phát huy. Ký ức của dân tộc, của người Hà Nội vẫn được lưu giữ hiệu quả trong các công trình kiến trúc. 11 năm tuy không dài, nhưng là quãng thời gian quan trọng: sau thống nhất đất nước và trước đổi mới. Nếu các công trình cứ tiếp tục đà bị phá hủy như hiện nay, sau này con cháu sẽ chẳng hiểu biết, chẳng còn ký ức về những vất vả và nghị lực vươn lên của cha ông mình trong thời Bao cấp.
Nhìn sang các nước Đông Nam Á, có quốc gia có cùng tư tưởng xã hội giống Việt Nam, có nước không, nhưng di sản kiến trúc XHCN thì chỉ có ở Hà Nội mới đầy đủ, mạnh mẽ, không quốc gia nào có được. Đó chính là một phần vốn văn hóa quan trọng của Hà Nội để xây dựng thương hiệu, bản sắc đô thị, hướng tới kỷ nguyên mới của đất nước.□
Bài đăng Tia Sáng số 18/2025