Nobel Kinh tế 2025: Bài học quản trị “phá hủy sáng tạo”
Công nghệ mới sẽ biến đổi nền kinh tế dù chúng ta thích hay không. Câu hỏi là liệu các xã hội sẽ quản trị quá trình chuyển đổi này một cách mang tính xây dựng - đầu tư vào tái đào tạo, tạo mạng lưới an toàn, duy trì sự cởi mở - hay chống lại nó một cách phá hoại, cố gắng ngăn chặn đổi mới và tự trói mình vào trì trệ.

Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã trao Giải Nobel Kinh tế cho Joel Mokyr (Đại học Northwestern), Philippe Aghion (Collège de France, INSEAD, và Trường Kinh tế London), và Peter Howitt (Đại học Brown) “vì đã giải thích tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy bởi đổi mới sáng tạo.”
Giáo sư Mokyr, một sử gia kinh tế, cho rằng chỉ có kiến thức thực tiễn thôi chưa đủ để duy trì đổi mới công nghệ. Qua tài liệu lịch sử trải dài nhiều thế kỷ, ông đã cho thấy trước thời kỳ Khai sáng, kiến thức công nghệ dựa trên những hướng dẫn thực hành – bản vẽ, công thức, thử và sai. Những phương pháp thực hành này có thể tạo ra các thiết bị hoạt động hữu ích, nhưng chúng không cung cấp nền tảng cho sự cải tiến có hệ thống. Nếu không hiểu tại sao mọi thứ hoạt động, đổi mới sẽ chững lại và cuối cùng bị đình trệ. Động cơ hơi nước là ví dụ điển hình: các phiên bản đầu tiên đã hoạt động, nhưng những cải tiến lớn chỉ đến sau khi các nhà khoa học hiểu được các nguyên lý về áp suất khí quyển và chân không. Nền tảng khoa học này cho phép các kỹ sư xây dựng một cách có hệ thống dựa trên các thiết kế trước đó thay vì dựa vào phỏng đoán và may rủi.
Nhưng chỉ có hiểu biết khoa học cũng chưa đủ. GS. Mokyr cũng nhấn mạnh vai trò của “những người thợ khéo” – thợ cơ khí, thợ thủ công, các doanh nhân áp dụng kiến thức khoa học để giải quyết các vấn đề thực tế và tạo ra những cải tiến dần dần vượt ra ngoài các đột phá khoa học lớn. Những đổi mới sáng tạo vĩ đại nhất xuất hiện từ sự tương tác giữa hiểu biết khoa học và ứng dụng thực tiễn. Chiếc ô tô là kết quả của hàng nghìn cải tiến nhỏ của các kỹ sư và thợ cơ khí xây dựng trên nền tảng vật lý và hóa học cơ bản. Hệ sinh thái internet ngày nay xuất hiện từ các lập trình viên và doanh nhân áp dụng các giao thức mạng cơ bản để tạo ra các ứng dụng và dịch vụ mới. Những người thợ khéo này chuyển hóa các nguyên lý khoa học thành các giải pháp thực tế, thực hiện những cải tiến liên tục mà tổng hợp lại sẽ thúc đẩy tiến bộ. Mô hình của họ cho thấy nếu không có sự luân chuyển liên tục này trong nền kinh tế, tăng trưởng sẽ trì trệ.
Những đổi mới sáng tạo vĩ đại nhất xuất hiện từ sự tương tác giữa hiểu biết khoa học và ứng dụng thực tiễn.
Đóng góp đoạt giải của hai giáo sư Aghion và Howitt là việc hình thức hóa quá trình phá hủy sáng tạo. Xây dựng trên ý tưởng của giáo sư Joseph Schumpeter trước đó, họ đã xây dựng một mô hình toán học trong bài báo Econometrica đột phá vào năm 1992, cho thấy chính xác cách thức phá hủy sáng tạo thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Khi các sản phẩm mới và tốt hơn gia nhập thị trường, các công ty bán sản phẩm cũ buộc phải rời khỏi thị trường. Đổi mới là sáng tạo nhưng cũng mang tính phá hủy vì khiến các công ty đang dựa vào công nghệ lỗi thời mất thị trường và người lao động mất việc làm. Và trong đó nó cũng minh họa một xung khắc cơ bản khi các nhà đổi mới tạo ra công nghệ mới trong khi có thể đe dọa sinh kế của các công ty và người lao động hiện tại. Xung đột giữa những người đổi mới và những người đương nhiệm có thể làm trật bánh tiến bộ. Cách các xã hội quản trị mâu thuẫn này sẽ quyết định liệu họ có trải qua tăng trưởng bền vững hay rơi trở lại trì trệ. Điều đó đưa chúng ta trở lại điểm cuối của Mokyr: xã hội phải cởi mở với những ý tưởng mới và sẵn sàng chấp nhận thay đổi. Sự chuyển dịch văn hóa của thời kỳ Khai sáng hướng tới việc đón nhận đổi mới quan trọng không kém những tiến bộ khoa học. Tuy nhiên, các công nghệ mới chắc chắn phải đối mặt với sự phản kháng từ các nhóm có thể bị thua thiệt. Ví dụ về những người Luddite – công nhân coi máy móc là mối đe dọa đối với sinh kế của họ – phá hủy máy móc dệt may ở Anh thế kỷ 19 là ví dụ kinh điển.
Tại sao Trao Giải vào Thời điểm Này?
Việc công nghệ thúc đẩy tăng trưởng dài hạn không phải là tin mới. Giáo sư Robert Solow, bản thân là người đoạt giải Nobel, đã thiết lập vào những năm 1950 rằng tiến bộ công nghệ, chứ không phải tích lũy vốn hay tăng trưởng lực lượng lao động, là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế bền vững, trong khi giáo sư Joseph Schumpeter đã đặt ra thuật ngữ “phá hủy sáng tạo” vào những năm 1940.

Khi trao giải Nobel năm 2025 dựa trên những nền tảng đã được thiết lập này, ủy ban đang gửi một thông điệp về những thách thức hiện tại mà các quốc gia đang đối mặt ngày nay. Ba mối đe dọa liên kết với nhau đối với sự thịnh vượng bền vững cần được chú ý: tác động của cuộc cách mạng AI, sự từ chối khoa học, và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng.
AI: Phá hủy Sáng tạo Quy mô Chưa từng Có
Công trình của các nhà khoa học đoạt giải mô tả chính xác những gì đang xảy ra ngay bây giờ với trí tuệ nhân tạo. Con số mô tả sự biến động đáng kinh ngạc. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 85 triệu việc làm sẽ bị thay thế trên toàn cầu bởi AI và tự động hóa vào cuối năm 2025. Hơn 14 triệu việc làm trên toàn thế giới đã mất vào tay AI tính đến đầu năm 2025. Tại Mỹ, 2,4 triệu việc làm đã bị ảnh hưởng bởi tự động hóa dựa trên AI vào năm 2024, với thêm 1,1 triệu dự kiến sẽ bị ảnh hưởng vào năm 2025. CEO của Anthropic, một công ty AI hàng đầu, dự đoán rằng AI sẽ loại bỏ một nửa tất cả các công việc văn phòng cấp thấp trong vòng năm năm.
Tuy nhiên, Diễn đàn Kinh tế Thế giới cũng ước tính 97 triệu việc làm mới sẽ xuất hiện – tạo ra ròng 12 triệu việc làm trên toàn cầu. Đây là phá hủy sáng tạo đang diễn ra: việc làm cũ biến mất, cơ hội mới xuất hiện, nhưng quá trình chuyển đổi đau đớn và không đồng đều. Vấn đề: 77% việc làm mới liên quan đến AI yêu cầu bằng thạc sĩ, tạo ra khoảng cách kỹ năng nghiêm trọng. Thông điệp của ủy ban rất rõ ràng: AI sẽ biến đổi nền kinh tế dù chúng ta thích hay không. Câu hỏi là liệu các xã hội sẽ quản trị quá trình chuyển đổi này một cách mang tính xây dựng – đầu tư vào tái đào tạo, tạo mạng lưới an toàn, duy trì sự cởi mở – hay chống lại nó một cách phá hoại, cố gắng ngăn chặn đổi mới và tự trói mình vào trì trệ.
Đổi mới là sáng tạo nhưng cũng mang tính phá hủy vì khiến các công ty đang dựa vào công nghệ lỗi thời mất thị trường và người lao động mất việc làm.
Khoa học Bị Tấn công
Nếu cuộc cách mạng AI minh họa phá hủy sáng tạo đang diễn ra, thì sự từ chối khoa học ngày càng gia tăng đe dọa chính nền tảng mà đổi mới dựa vào. Đại dịch COVID-19 đáng lẽ phải minh chứng cho phương pháp khoa học: hàng thập kỷ nghiên cứu cơ bản về mRNA đã cho phép phát triển vaccine nhanh chóng cứu hàng triệu sinh mạng. Thay vào đó, tại Mỹ, sự hoài nghi về vaccine đã tăng lên, với các nhà lãnh đạo chính trị đưa ra những thông điệp làm suy yếu niềm tin của công chúng vào chuyên môn khoa học nói chung.
Điều này đe dọa nền tảng của tăng trưởng kinh tế. Như giáo sư Mokyr đã mô tả, đổi mới đòi hỏi phải hiểu tại sao mọi thứ hoạt động. Kiến thức khoa học tạo ra nền tảng cho những tiến bộ tiếp theo. Khi các xã hội mất niềm tin vào khoa học, khi chính trị lấn át bằng chứng thực nghiệm, khi các thuyết âm mưu có sức thu hút hơn nghiên cứu được bình duyệt, toàn bộ hệ sinh thái đổi mới bị đe dọa. Sự công nhận của ủy ban đối với giáo sư Mokyr nhắc nhở chúng ta rằng thịnh vượng không phải là điều tất yếu. Nó dựa trên các thể chế và thái độ văn hóa coi trọng điều tra khoa học nghiêm ngặt và tin tưởng vào chuyên môn hơn là ý thức hệ.
Chủ nghĩa Bảo hộ: Mối Đe dọa Trực tiếp
Trong các cuộc tranh luận chính sách thương mại quốc tế hiện nay, GS. Aghion đã lên tiếng mạnh mẽ về những nguy hiểm của chủ nghĩa bảo hộ tại buổi công bố Nobel. GS. Howitt cũng thẳng thắn về các chính sách thuế quan của Mỹ sẽ giảm mức đổi mới bằng cách giảm quy mô thị trường. Và GS. Mokyr đã cho thấy sự lưu thông kiến thức khoa học qua biên giới trong thời kỳ Khai sáng đã đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Khi các nhà khoa học ở các quốc gia khác nhau chia sẻ những phát hiện và hợp tác trong công việc, đổi mới phát triển mạnh mẽ. Khi biên giới đóng lại và tri thức bị tắc nghẽn, tiến bộ chậm lại.

Chủ nghĩa bảo hộ đe dọa đổi mới qua nhiều kênh: nó làm giảm cạnh tranh, hạ thấp áp lực lên các công ty để đổi mới; nó làm tăng chi phí cho các đầu vào nhập khẩu, khiến phát triển sản phẩm mới đắt hơn; nó phân mảnh thị trường, làm giảm lợi nhuận từ đổi mới. Cơ bản nhất, nó báo hiệu sự rút lui khỏi sự cởi mở mà nghiên cứu lịch sử của GS. Mokyr cho thấy là thiết yếu cho tăng trưởng bền vững.
Bên cạnh các chính sách bảo hộ thương, chính sách nhập cư cũng có ảnh hưởng đến đổ mới sáng tạo. Các nhà khoa học đoạt giải Nobel năm nay minh họa tại sao sự cởi mở di chuyển con người lại quan trọng. Trong số những người đoạt giải khoa học năm 2025, phần lớn là người nhập cư hoặc đã làm việc ở nhiều quốc gia. Trong lĩnh vực Vật lý, hai trong ba người đoạt giải là người nhập cư vào Mỹ – Michel Devoret từ Pháp và John Clarke từ Vương quốc Anh, hiện đều là cư dân Mỹ tiến hành nghiên cứu đoạt giải tại các cơ sở Mỹ. Trong Hóa học, Richard Robson sinh ra ở Vương quốc Anh nhưng làm việc ở Úc, trong khi Omar Yaghi – hiện là cư dân Mỹ – trở thành người đoạt giải Nobel khoa học đầu tiên sinh ra ở Jordan. Trong Kinh tế học, Joel Mokyr sinh ra ở Hà Lan và hiện là người Israel – Mỹ tại ĐH Northwestern, Philippe Aghion là người Pháp nhưng làm việc ở cả Pháp và Anh, và Peter Howitt là người Canada làm việc tại Mỹ.
Hơn 30% người đoạt giải Nobel trong vật lý, hóa học và y học kể từ năm 2000 là người nhập cư. Vật lý có tỷ lệ người đoạt giải sinh ra ở nước ngoài cao nhất ở mức 37%, tiếp theo là hóa học ở 33% và y học ở 23%. Trong số 202 người đoạt giải trong thế kỷ này, có 63 người đã rời khỏi nơi họ sinh ra.
Mokyr, Aghion và Howitt không chỉ giải thích cách đổi mới thúc đẩy tăng trưởng. Họ giải thích tại sao nó khó khăn — tại sao các xã hội chống lại thay đổi, tại sao các công ty và công nhân đương nhiệm chống lại công nghệ mới, tại sao sự cởi mở dễ bị tổn thương về mặt chính trị. Công trình của họ cho thấy rằng duy trì tăng trưởng đòi hỏi không chỉ làm đúng về kinh tế, mà còn làm đúng về chính trị. Phá hủy sáng tạo phải được quản lý, không phải ngăn chặn. Những người thua cuộc phải được hỗ trợ, không được nói rằng sự hy sinh của họ là cần thiết cho lợi ích chung. Sự cởi mở phải được duy trì, nhưng chi phí của sự cởi mở phải được thừa nhận một cách trung thực và phân phối công bằng. Các quốc gia tìm ra cách làm điều này sẽ thịnh vượng. Những quốc gia không làm được sẽ luân chuyển giữa chủ nghĩa bảo hộ phá hoại và sự gián đoạn không được quản lý, không đạt được cả tăng trưởng lẫn ổn định chính trị.
Ngay khi Ủy ban Nobel vinh danh những nhà khoa học nhập cư này, Mỹ và các nền kinh tế lớn khác đang hạn chế nhập cư. Chính quyền Mỹ đã cắt giảm các khoản trợ cấp nghiên cứu trong khi khiến cho các nhà khoa học nước ngoài khó làm việc ở Mỹ hơn. Úc, Canada và Anh đã ban hành các hạn chế đối với sinh viên quốc tế và các nhà nghiên cứu. Những chính sách này trực tiếp đe dọa sự cởi mở mà tăng trưởng bền vững đòi hỏi.
Kinh tế Chính trị của Phá hủy Sáng tạo: Sự Cám Dỗ của Chủ nghĩa Bảo hộ
Ở đây chúng ta đối diện một nghịch lý cơ bản trong các giải Nobel Kinh tế năm nay. Chính sự phá hủy sáng tạo thúc đẩy thịnh vượng dài hạn lại tạo ra áp lực chính trị đe dọa nó. Sự gia tăng chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa cô lập ngày nay không phải là ngẫu nhiên – nó chính là hậu quả của sự thay đổi công nghệ.
Hãy xem xét những gì đã xảy ra trong bốn thập kỷ qua. Những tiến bộ trong tự động hóa đã thay thế hàng triệu việc làm sản xuất ở các nền kinh tế tiên tiến. Một công nhân đã dành 30 năm trên dây chuyền lắp ráp ô tô đã chứng kiến robot đảm nhận các công việc hàn, sơn và lắp ráp. Những tiến bộ trong công nghệ truyền thông và chi phí vận chuyển đã mở rộng thương mại quốc tế đáng kể. Công ăn việc làm chuyển đến Mexico, Trung Quốc hay Việt Nam nơi chi phí lao động thấp hơn. Và trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung 2018-2019, sản xuất không quay trở lại Mỹ, thay vào đó chuyển sang các địa điểm chi phí thấp hơn khác.
Một lần nữa đây là phá hủy sáng tạo đang diễn ra. Toàn bộ nền kinh tế được lợi – người tiêu dùng có được ô tô rẻ hơn, tài nguyên chảy vào các mục đích sử dụng hiệu quả hơn, các ngành công nghiệp mới xuất hiện. Nhưng người công nhân đã mất việc không trải nghiệm điều này như là “sáng tạo”. Anh ta trải nghiệm thất nghiệp, mất bảo hiểm y tế, giá trị tài sản giảm trong cộng đồng của mình, và triển vọng giảm sút cho con cái của anh ta. Phần sáng tạo xảy ra ở nơi khác, với người khác. Sự phá hủy xảy ra với anh ta.
Nếu Việt Nam có thể thích nghi thành công với các công nghệ mới và nâng cao năng suất đủ, thì có thể thu hút đầu tư để sản xuất những sản phẩm có giá trị cao hơn này. Nhưng điều này chỉ có thể nếu Việt Nam đầu tư vào các yếu tố cơ bản phía cung: giáo dục, đặc biệt là trong khoa học và công nghệ; đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng hiện đại; cởi mở với thương mại, ý tưởng, con người; và thúc đẩy một hệ sinh thái “người thợ khéo” bên cạnh các “nhà tư tưởng” thông qua các ưu đãi thị trường và chính sách không làm thiệt thòi các doanh nghiệp nhỏ.
Khi hàng triệu công nhân trải nghiệm điều này cùng một lúc, tập trung ở các khu vực và ngành công nghiệp cụ thể, áp lực chính trị tăng lên. Công chúng ngả theo các chính trị gia hứa hẹn “đưa trở lại” những công việc đã mất. Thuế quan và hạn chế thương mại trở nên phổ biến về mặt chính trị vì chúng hứa hẹn đảo ngược những thay đổi – để dừng sự phá hủy, ngay cả khi điều đó có nghĩa là hy sinh sự sáng tạo.
Vấn đề là chủ nghĩa bảo hộ không thực sự giải quyết vấn đề cơ bản. Như công trình của hai giáo sư Aghion và Howitt chứng minh, việc ngăn chặn phá hủy sáng tạo không bảo tồn công việc cũ vô thời hạn – nó chỉ trì hoãn điều không thể tránh khỏi và đồng thời còn làm nền kinh tế trì trệ. Công việc của công nhân ô tô bị mất chủ yếu do tự động hóa, không phải thương mại. Ngay cả khi thuế quan đưa sản xuất ô tô trở lại Mỹ, các nhà máy mới sẽ được tự động hóa cao, sử dụng ít công nhân hơn nhiều so với các nhà máy cũ. Trong khi đó, chi phí cao hơn do thuế quan áp đặt làm giảm tiền lương thực tế cho tất cả mọi người, ngành được bảo hộ trở nên kém cạnh tranh toàn cầu hơn, và đổi mới chậm lại. Thay vào đó, công trình của các nhà khoa học đoạt giải gợi ý một con đường khác: các xã hội phải hỗ trợ những người thua cuộc từ quá trình thay đổi công nghệ, chứ không được cố gắng ngăn chặn bản thân sự thay đổi.
Đối với các nền kinh tế tiên tiến như Mỹ, điều này có nghĩa là các chính sách toàn diện để quản lý phá hủy sáng tạo. Bảo hiểm thất nghiệp mạnh mẽ phải thay thế một phần đáng kể tiền lương bị mất trong thời gian kéo dài, không chỉ vài tháng. Bảo hiểm y tế và quyền lợi hưu trí phải luân chuyển được, không nên gắn với các nhà tuyển dụng cụ thể. Các chính sách phát triển khu vực phải nhắm vào các cộng đồng bị ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái công nghiệp, thừa nhận rằng sự đổ vỡ kinh tế thường tập trung về mặt địa lý. Về mặt chính trị, điều này có nghĩa là thừa nhận rõ ràng rằng thương mại và thay đổi công nghệ tạo ra những người thua cuộc, và cam kết nguồn lực công để giúp đỡ họ. Đây không phải là và việc từ thiện – đó là cái giá của việc duy trì sự cởi mở tạo ra thịnh vượng dài hạn.
Đối với các quốc gia được lợi từ phá hủy sáng tạo – như Việt Nam – cũng có trách nhiệm. Khi sản xuất chuyển từ Mỹ hoặc châu Âu sang Việt Nam, công nhân và doanh nghiệp Việt Nam được lợi trong khi công nhân Mỹ hoặc châu Âu thua thiệt. Lợi ích toàn cầu từ thương mại là có thật, nhưng chúng không được phân phối đều. Điều này tạo ra một vấn đề kinh tế chính trị: nếu những người thua cuộc ở các nền kinh tế tiên tiến không được bồi thường, cuối cùng họ sẽ buộc chính phủ của mình phải áp dụng các chính sách bảo hộ gây hại cho tất cả mọi người, bao gồm cả Việt Nam. Do đó, các quốc gia được lợi từ sự cởi mở sẽ phải chia sẻ chi phí với các đối tác thương mại của mình.
Điều này có thể có nhiều hình thức. Các quốc gia thụ hưởng có thể hỗ trợ các tổ chức và hiệp định đa phương bao gồm các điều khoản về điều chỉnh người lao động. Họ có thể sẵn sàng nhượng bộ về các rào cản phi thuế quan – như Việt Nam đã làm trong các cuộc đàm phán với Mỹ gần đây – để giải quyết những mối quan ngại hợp lệ về tiêu chuẩn lao động, bảo vệ môi trường hoặc quyền sở hữu trí tuệ. Không kém phần quan trọng, họ phải nhận ra rằng yêu cầu về “thương mại công bằng” thường phản ánh nỗi đau thực sự từ sự đổ vỡ kinh tế, không chỉ là hệ tư tưởng bảo hộ. Giả vờ rằng thương mại chỉ tạo ra người thắng cuộc, hoặc bác bỏ mối quan tâm về công nhân bị thay thế là thiếu hiểu biết về kinh tế – chỉ củng cố các lực lượng chính trị thúc đẩy chủ nghĩa bảo hộ.
Việt Nam Có thể Học được gì: Chuẩn bị cho sự trở lại của lý trí
Trong ngắn hạn, không thể tránh khỏi thực tế rằng các biến dạng thị trường như thuế quan và rào cản thương mại sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng. Thuế quan 20% được công bố gần đây đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, mặc dù tốt hơn mức 46% được đề xuất ban đầu, vẫn là một sự gia tăng chi phí đáng kể sẽ gây áp lực lên các nhà xuất khẩu Việt Nam. Các công ty đang tính toán lại, tìm kiếm các giải pháp thay thế khi chuỗi cung ứng đang điều chỉnh, như họ đã làm trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung 2018-2019 khi sản xuất chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam. Việt Nam không thể bỏ qua những áp lực phía cầu này. Chính phủ đã đúng khi đàm phán với chính quyền Mỹ, nhượng bộ về các rào cản phi thuế quan như dòng dữ liệu, nhập khẩu nông sản và bảo vệ sở hữu trí tuệ. Duy trì khả năng tiếp cận thị trường là thiết yếu trong ngắn hạn. Đây là những lực lượng kinh tế thực sự ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người lao động
Tuy nhiên, các chính sách phía cầu và biến dạng thị trường không thể duy trì tăng trưởng dài hạn. Thuế quan chuyển nhu cầu từ nhà cung cấp này sang nhà cung cấp khác. Chúng có thể giúp một quốc gia chiếm được thị phần tạm thời. Nhưng chúng không tạo ra khả năng công nghệ tạo ra mức sống tăng qua nhiều thập kỷ. Hơn nữa, thuế quan cũng không ngăn cản được bước tiến của công nghệ. Khi chi phí của chủ nghĩa bảo hộ tăng lên – giá cao hơn cho người tiêu dùng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, thuế quan trả đũa, đổi mới chậm hơn – đến lúc sẽ có thay đổi và tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản: khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp và lợi thế so sánh.
Về lâu dài, điều quan trọng là khả năng của một nền kinh tế trong việc đổi mới và tận dụng các cuộc cách mạng công nghệ lớn như AI. Khi những công nghệ này giảm chi phí và giá cả trên toàn cầu, chúng tạo áp lực lên các quốc gia với tiền lương cao phải sản xuất hàng hóa có giá trị cao hơn. Nếu Việt Nam có thể thích nghi thành công với các công nghệ mới và nâng cao năng suất đủ, thì có thể thu hút đầu tư để sản xuất những sản phẩm có giá trị cao hơn này. Nhưng điều này chỉ có thể nếu Việt Nam đầu tư vào các yếu tố cơ bản phía cung: giáo dục, đặc biệt là trong khoa học và công nghệ; đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng hiện đại; cởi mở với thương mại, ý tưởng, con người; và thúc đẩy một hệ sinh thái “người thợ khéo” bên cạnh các “nhà tư tưởng” thông qua các ưu đãi thị trường và chính sách không làm thiệt thòi các doanh nghiệp nhỏ.
Các quốc gia đầu tư đúng đắn vào phía cung trong khi quản lý áp lực phía cầu sẽ phát triển mạnh khi lý trí kinh tế trở lại. Những quốc gia chỉ tập trung vào khả năng tiếp cận thị trường ngắn hạn trong khi bỏ bê nền tảng đổi mới sẽ thấy mình bị mắc kẹt trong trì trệ, bất kể họ được đối xử về thuế quan như thế nào. Lịch sử cho thấy rằng các làn sóng bảo hộ cuối cùng sẽ rút lui. Khi sự việc đó đến, các quốc gia đã đầu tư khôn ngoan trong thời gian gián đoạn sẽ là những quốc gia thịnh vượng. Đây là bài học cuối cùng từ các giáo sư Mokyr, Aghion và Howitt: tăng trưởng bền vững không thể được coi là đương nhiên – nó đòi hỏi các lựa chọn có chủ ý để duy trì các cơ chế của đổi mới và phá hủy sáng tạo, ngay cả khi áp lực ngắn hạn cám dỗ chúng ta hướng tới những con đường dễ dàng hơn.□
Bài đăng Tia Sáng số 21/2025
