Nobel Kinh tế 2025: Tăng trưởng bền vững và vài gợi ý cho Việt Nam

Đối với Việt Nam - đang ở giai đoạn chuyển đổi, muốn bứt phá - những bài học từ các công trình đoạt giải Nobel Kinh tế 2025 rất đáng suy ngẫm: không thể chỉ “kỳ vọng chính sách vĩ mô” mà bỏ qua quá trình đổi mới ở cấp doanh nghiệp, không thể chỉ tập trung vào ứng dụng mà cũng cần đầu tư mạnh cho tri thức khoa học nền tảng, không thể để độc quyền công nghệ cản trở làn sóng mới.

Joel Mokyr (phải) đang trò chuyện với đồng nghiệp Robert Gordon, một nhà kinh tế hàng đầu thế giới về việc làm, phát triển bền vững, lạm phát tại khuôn viên Đại học Northwestern. Ảnh: Đại học Northwestern

Giải Nobel Kinh tế năm nay được trao cho Joel Mokyr về việc xác định các điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng bền vững thông qua tiến bộ công nghệ, và Philippe Aghion và Peter Howitt vì đóng góp cho lý thuyết tăng trưởng bền vững qua phá hủy sáng tạo.

Điểm lại lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Làm thế nào để một quốc gia phát triển thịnh vượng? Tại sao một số quốc gia lại phát triển hơn một số quốc gia khác? Đây là hai câu hỏi lớn không chỉ của ngành kinh tế học mà còn của các ngành khác. Kinh tế học, dựa trên nền tảng phân tích thiệt hơn giữa các lựa chọn (không chỉ của từng người riêng biệt mà còn của các tổ chức) đã đưa ra nhiều giải thích cho hai câu hỏi trên. Tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quyết định cho sự phát triển của xã hội. Có nhiều giải thích cho tăng trưởng kinh tế: dựa vào tài nguyên, dựa vào tích lũy vốn (hoặc tích lũy tư bản), dựa vào vốn con người, nhờ vào hội nhập và xuất khẩu, có các thể chế tốt, có khoa học và công nghệ phát triển, …

Trước khi nói đến đóng góp khoa học của Joel Mokyr cùng với Philippe Aghion và Peter Howitt, ta điểm qua một vài lý thuyết tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người của một nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có lượng vốn, lượng lao động. Tuy nhiên, Robert Solow (người được trao giải Nobel Kinh tế năm 1987 cho những đóng góp trong lý thuyết tăng trưởng kinh tế), chỉ ra rằng lượng vốn và lượng lao đaộng không phải yếu tố quan trọng nhất mà chính là năng suất các nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity, TFP, ta gọi tắt là năng suất tổng hợp). Mặc dù Solow có nhiều công trình quan trọng, ta chỉ kể một trong số đó. Đó là công trình nghiên cứu xuất bản năm 1957 ở tạp chí Review of Economics and Statistics. Solow dùng dữ liệu của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1909-1949, và chứng minh rằng đóng góp vào tăng trưởng GDP bình quân đầu người của năng suất tổng hợp là 87,8%, hơn hẳn so với đóng góp của lượng vốn và lượng lao động. Solow cho rằng năng suất này đến từ những tiến bộ khoa học và công nghệ.

Vậy thì tiến bộ công nghệ từ đâu mà có? Paul Romer lập luận rằng tiến bộ công nghệ đến từ tri thức và những ý tưởng sáng tạo. Tri thức (ví dụ như các phép tính, các định lý toán hoặc hoặc vật lý) khác với máy móc, ở chỗ bất kỳ ai cũng có thể sử dụng cùng lúc, mà hầu như không bị hạn chế. Như vậy, tri thức có thể được khuếch đại rất lớn và nhờ đó có thể tạo ra những tri thức mới, công nghệ mới và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, một cách quản lý tốt hơn được tìm ra, có thể được dùng trên toàn quốc và làm cho các quá trình sản xuất tốt hơn, tạo tăng trưởng kinh tế.

Philippe Aghion nhận bằng Tiến sĩ danh dự tại Đại học Stockholm vào cuối tháng 9/2025. Ảnh: Đại học Stockholm.

Giải Nobel kinh tế 2025

Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội hiếm khi là một quá trình giản đơn. Không phải cứ có một ngành khoa học phát triển là tự động tạo ra sự phát triển kinh tế và thịnh vượng của xã hội. Sử gia kinh tế Joel Mokyr tại Đại học Northwestern (Mỹ), bằng cách nhìn lại lịch sử, đã chỉ ra những cơ chế mà những tiến bộ khoa học và ứng dụng khoa học có thể tạo ra sự tăng trưởng bền vững và liên tục. Bên cạnh đó, có những trường hợp (ở Trung Quốc, Hy Lạp, Rome cổ đại, …) mà một số tiến bộ khoa học và công nghệ đơn lẻ, mặc dù xuất hiện nhưng không nhất thiết tạo ra sự phát triển kinh tế.1 Mokyr trong một công trình của ông vào năm 2005, đưa ví dụ, đó là khi làm nông nghiệp mà không hiểu sâu về khoa học đất, khai thác mỏ mà thiếu địa chất học, thực hành y tế mà thiếu sinh vật học và miễn dịch học. Như vậy, từ khoa học đến sự phát triển kinh tế, cần nhiều ngành cùng phát triển để bổ trợ lẫn nhau và cần nhiều bước trung gian (khám phá khoa học, tạo ra ứng dụng và công nghệ, giới thiệu và phổ biến công nghệ, và cuối cùng là áp dụng vào các quá trình sản xuất).

Hai nhà kinh tế học Philippe Aghion (đang làm việc tại Collège de France và INSEAD), và Peter Howitt (Brown University), có cách tiếp cận khác với Joel Mokyr. Aghion và Howitt, trong công trình mang tính đột phát đăng ở tạp chí Econometrica năm 1992, xây dựng một khung lý thuyết để giải thích tăng trường kinh tế bằng cách phân tích quyết định của doanh nghiệp thông qua sự phá hủy mang tính sáng tạo (creative destruction), vốn gắn với tên tuổi của Joseph Schumpeter từ những năm 1940. Theo Aghion và Howitt, việc tạo ra công nghệ mới đồng thời sẽ thay thế và loại bỏ các công nghệ lỗi thời.

Theo Joel Mokyr, từ khoa học đến sự phát triển kinh tế, cần nhiều ngành cùng phát triển để bổ trợ lẫn nhau và cần nhiều bước trung gian (khám phá khoa học, tạo ra ứng dụng và công nghệ, giới thiệu và phổ biến công nghệ, và cuối cùng là áp dụng vào các quá trình sản xuất). Còn theo Aghion và Howitt, việc tạo ra công nghệ mới đồng thời sẽ thay thế và loại bỏ các công nghệ lỗi thời. Công nghệ mới ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những máy móc mới, cách làm mới, ý tưởng mới mà có thể ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh.


Công nghệ mới ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những máy móc mới, cách làm mới, ý tưởng mới mà có thể ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp quyết định đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) để tạo ra đổi mới (innovation) và tạo ra công nghệ mới. Vì doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận, quyết định của họ phụ thuộc vào rủi ro bị thay thế (bởi các doanh nghiệp khác) và sự chênh lệch lợi nhuận giữa công nghệ mới và công nghệ cũ. Công nghệ mới xuất hiện có thể thay thế công nghệ cũ, nhưng cũng có thể sẽ bị thay thế bởi công nghệ mới hơn trong tương lai.2 Về lâu dài, tốc độ tăng trưởng sẽ phụ thuộc vào quy mô đổi mới, lực lượng lao chất lượng cao và năng suất nghiên cứu.

Khung lý thuyết này sau đó được phát triển và sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau của kinh tế học, như tác động vĩ mô của cấu trúc thị trường, các làn sóng công nghệ, sự phát triển của những doanh nghiệp, … Những bằng chứng thực nghiệm cũng cho thấy sự vững vàng của khung lý thuyết này. Philippe Aghion và Peter Howitt cũng nhấn mạnh rằng yếu tố con người là không thể thiếu trong đổi mới sáng tạo (xem Aghion & Howitt, 2024).

Vài gợi ý cho Việt Nam

Hiện tại, Việt Nam đang cố gắng thúc đẩy Đổi mới Sáng tạo (ĐMST). Xuất phát từ các công trình trên, trong bối cảnh Việt Nam, ta có thể đề cập đến một số yếu tố sau. (Bạn đọc có thể tham khảo thêm những phân tích chi tiết hơn trong bài của Lê Văn Cường và cộng sự, đăng ở Tia Sáng, số ra ngày 20/6/2025).

Hỗ trợ đầu tư R&D có chiến lược, nhưng không chỉ “đặt hàng” từ Nhà nước.

Theo mô hình Aghion–Howitt, tốc độ đổi mới và tăng trưởng dài hạn phụ thuộc vào tần suất đổi mới và độ nhảy công nghệ trung bình. Việt Nam nên ưu tiên chính sách hỗ trợ R&D không chỉ cho các đơn vị nhà nước mà khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đổi mới, phối hợp giữa trường đại học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp.

Cần thiết kế cơ chế tài trợ (subsidy) có điều kiện, thúc đẩy cạnh tranh trong R&D, ưu đãi thuế cho hoạt động ĐMST, và thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa (spillovers).

Cạnh tranh “lành mạnh” – hạn chế độc quyền công nghệ

Trong mô hình phá hủy sáng tạo, nếu doanh nghiệp nào nắm độc quyền công nghệ và dễ “kìm chân” doanh nghiệp tiếp theo, đổi mới sẽ bị cản trở. Vì vậy, Việt Nam nên tăng cường thực thi luật cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ra nhập thị trường, và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, chào đón các doanh nghiệp công nghệ cao nước ngoài ; đây cùng là một áp lực tích cực buộc đổi mới trong nước.
Phát triển văn hóa “khoa học, công nghệ và đổi mới”

Mokyr nhấn mạnh kiến thức hữu ích và năng lực kỹ thuật là điều kiện cần. Nếu người lao động thiếu hiểu biết công nghệ, thiếu nền tảng vững vàng, thiếu tinh thần cởi mở, thì tính đổi mới khó lan tỏa. Việt Nam cần tập trung cải cách giáo dục đại học, đào tạo STEM, khuyến khích liên ngành (khoa học – kỹ thuật – quản trị) để không chỉ đào tạo nhân lực mà còn tư duy đổi mới. Ngoài ra, thúc đẩy văn hóa chấp nhận thay đổi, tự do học thuật, khuyến khích nghiên cứu nền tảng, không chỉ ứng dụng ngắn hạn.

Chọn lĩnh vực chiến lược để có “bước nhảy công nghệ” – ưu tiên ngành có lợi thế cạnh tranh

Với tình hình hiện tại, Việt Nam khó có thể đổi mới mọi lĩnh vực cùng một lúc. Dựa vào năng lực hiện có (lao động tương đối trẻ, chi phí thấp, kết nối quốc tế), có thể chọn một số lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, điện tử, phần mềm, năng lượng tái tạo để “bước nhảy” trước. Trong các ngành này, việc đầu tư mạnh vào R&D, thu hút các startup đổi mới, tạo hệ sinh thái hỗ trợ sẽ dễ tạo ra các bước nhảy công nghệ.

Kích thích sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và startup

Doanh nghiệp nhỏ thường linh hoạt, dễ thử nghiệm mô hình mới. Nếu cơ chế hỗ trợ, tài chính rẻ (vốn mạo hiểm, quỹ đổi mới sáng tạo, ưu đãi thuế) được mở ra, nhiều startup có thể trở thành những nòng cốt đổi mới nhỏ để “phá hủy sáng tạo” – tạo động lực và áp lực đổi mới cho nền kinh tế.

Đo lường đổi mới sáng tạo thông qua dữ liệu

Cần xây dựng hệ thống đo lường đổi mới sáng tạo, theo dõi tần suất sáng chế, đăng ký bản quyền, đầu tư R&D theo ngành, để phát hiện “các ngành trì trệ” hoặc “các nút cổ chai đổi mới” mà ra chính sách nhắm đúng vào đó.

Đổi mới sáng tạo phải hướng đến người dân

ĐMST phải phục vụ nhu cầu nhân sinh, giúp người dân sinh hoạt kinh tế có hiệu quả hơn, ít vất vả hơn. Nên quan tâm đến nhóm dân cư nghèo, không có điều kiện tiếp cận công nghệ mới. Phải tạo điều kiện cho mọi thành phần đựơc đào tạo, không bị rào cản vì vấn đề tài chính. Nếu không, công cuộc đôi mới sẽ không “tối ưu” vì có nhiều người có năng khiếu nhưng bị rào cản vì chi phí học hành, hoặc ở nông thôn xa những đại học chất lượng cao. Cũng không nên chỉ tập trung đổi mới trong lĩnh vưc kinh tế kỹ thuật. Ta cũng nên sử dụng đổi mới sáng tạo để phát triển các lĩnh vực văn hóa, âm nhạc, hội họa, thể thao.
***
Nobel Kinh tế 2025 dành cho Joel Mokyr, Philippe Aghion và Peter Howitt là minh chứng rõ ràng rằng trong thế kỷ XXI, yếu tố đổi mới sáng tạo (innovation) — không phải chỉ số lượng vốn hay số lượng lao động — là động lực quyết định cho tăng trưởng bền vững. Mokyr cung cấp khung lịch sử, văn hóa, thể chế làm nền tảng cho đổi mới; Aghion–Howitt cung cấp mô hình lý thuyết để liên kết hành động đổi mới vi mô đến tăng trưởng vĩ mô.

Đối với Việt Nam – đang ở giai đoạn chuyển đổi, muốn bứt phá – những bài học từ các công trình này rất đáng suy ngẫm: không thể chỉ “kỳ vọng chính sách vĩ mô” mà bỏ qua quá trình đổi mới ở cấp doanh nghiệp, không thể chỉ tập trung vào ứng dụng mà cũng cần đầu tư mạnh cho tri thức khoa học nền tảng, không thể để độc quyền công nghệ cản trở làn sóng mới.
———–

1. Xem thêm những lập luận và bằng chứng ở cuốn sách của Mokyr (1990).
2. Hẳn nhiên, không phải ai cũng chào đón đổi mới. Thật vậy, những nhóm hưởng lợi từ một công nghệ, có thể bao gồm cả doanh nghiệp mà lúc trước đã tạo ra công nghệ này, sẽ không muốn thấy công nghệ của họ bị thay thế bởi công nghệ từ doanh nghiệp khác. Do vậy, cạnh tranh bình đẳng có vai trò quan trọng.

Bài đăng Tia Sáng số 20/2025

Tác giả

(Visited 27 times, 27 visits today)